Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
. Chồng chèo thì vợ cũng chèo
Hai đứa cùng nghèo lại đụng với nhau.
2. Ngó lên hòn Kẽm đá dừng ,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi !
3. Thương em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.
4. Thân em như cá trong lờ
Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu.
5. Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen.
6. Trời mưa cóc nhái chết sầu
Ễnh ương đi cưới nhái bầu không ưng
Chàng hiu đứng dựa sau lưng
Khều khều móc móc cứ ưng cho rồi.
7. Anh về em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.
8. Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô.
9. Đời mô cơ cực như ri
Đồng Khánh ở giữa, Hàm nghi hai đầu.
10. Ai mô mộ cảnh ưa thiền
Lòng trần dũ sạch nhơn nhơn ra về.
Bn có thể viết từ ngữ toàn dân tương ứng cho mk k???!!!~
Một số câu thơ về quê hương
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay.
(Quê hương- Đỗ Trung Quân)
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về.
Ca dao
Chợ Sài Gòn cẩn đá
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng
Giã em xứ sở vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Ca dao
- Lời hơn lẽ thiệt.
- Khôn chẳng qua lẽ, khoẻ chẳng qua lời.
- Lời hay lẽ phải.
- Vàng thật không sợ lửa.
- Nói phải củ cải cũng nghe.
- Danh ngôn: “ Điều gì không rõ ràng thì không nên thừa nhận”.
- Khó mà biết lẽ biết trời /Biết ăn biết ở hơn người giàu sang.
Bánh trôi nước
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bạn tham khảo ạ ((:
1. Vào Xuân
Nắng ban mai reo rắc cung đàn
Tiếng nẩy chồi vườn lộc kết xuân
Em có nghe lòng đang rạo rực
Cánh môi trần mộng đỏ cười duyên. (-st: Ánh Hạ)
2. Sầu Tím
Chiều Mây hỏi Núi có buồn không?
Về xa mấy dặm nhớ mênh mông
Vầng Trăng một bóng Người đâu biết
Có kẻ chiều nay bước theo chồng.
Ta chúc em rượu nhạt lời không
Vườn thưa đâu ngõ cánh thiệp hồng
Bên nhau hai đứa thầm ghi khắc
Nay về Tên ấy bỏ đầu Đông.. (st: Ánh Hạ)
3. Tình Yêu-Toán Học
Tìm giả thuyết khi tình Bội Số
Mang Đạo Hàm vào ngõ tìm em
Giải Tích Phân đi về xóm cũ
Chứng Minh Rằng:bài toán tình yêu.
Tìm Căn Thức tình em bỏ lại
Nghiệm Chia Hai khoảnh khắc nụ cười
Và Ý Nghĩa Phương Trình độc thoại
Xa người!Định Lý Đảo tim tôi.
Tìm lời thể như tìm Ẩn Số
Tựa Cos-Sin chắn ẩn hai người
Tag-Cotag không về chung ngõ
Em hững hờ Vô Nghiệm tình tôi..(st:Ánh Hạ)
PP/ss: Nguồn: Mạng Oppa
Tham khảo!
a. Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”
b. Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoát gãy cảnh thiên hương.
b). Bỗng lèo chớp đỏ
Thôi rồi, lượm ơi!
Các câu có sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh để diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác đau buồn, ghê sợ, nặng nề, tránh thô tục, thiếu lịch sự
Nêu cảm nghĩ về nhân vật lão Hạc và ông giáo trong bài Lão Hạc của Nam Cao "Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943.:
Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện. Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc. Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu. Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ. Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi. Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”.Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát. Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người nông dân... “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi ... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”. Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. Ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương. Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ. Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình. Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu ... Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc... Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.
Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn,
Để tâm tìm hiểu đời luôn dạt dào…
****
Lão Hạc, lão nghĩ thế nào
Gà gà đôi mắt, thuốc lào say môi.
Lão rằng : Thằng cháu nhà tôi,
Thưa tin từ dạo xa tôi đến giờ.
À ra lão vẫn ngóng chờ,
Trông con đằng đẵng thẫn thờ phương xa.
Chẳng là hết hạn công ta, (1)
Thư về nhắn bố nhẩn nha con về.
Khi nào kiếm đủ mọi bề.
Bạc trăm sung túc mới về bố ơi.
Không tiền sống khổ sống vơ
Tình duyên bàng bẽ, bơ phờ mốc meo.
Ấy là nhắc chuyện cưới cheo,
Người ta thách nặng, lão nghèo sao lo.
Thằng con phẫn chí buồn so,
Đưa thẻ, kí giấy xin vô đồn điền.
Cho hay có thẻ cũng thiêng,
Thẻ thân người giữ như xiềng thân ta.
Có con mà phải rời xa,
Nó là người của người ta mất rồi!
Lão Hạc rưng rức một hồi,
Thở dài than vắn bồi hồi không yên.
Tháng ngày xa cách biệt biền,
Lão thân trơ trọi nỗi niềm quạnh hiu.
May còn con chó hẩm hiu,
Làm bạn với lão hắt hiu xế chiều.
Cậu Vàng – lão gọi chó yêu.
Ấp ôm chăm bẵm trọn điều mến thương.
Thói đời thương lắm hóa xương, (2)
Một hôm lão bảo Cậu Vàng đi xa.
Bán rồi? Lão gật, làm ra
Tươi cười nét mặt rồi òa khóc than.
Nghĩ thầm : lão Hạc còn ham,
Đi lừa con chó mảng tham quên tình.
Hỡi ơi lão Hạc thân tình,
Con người đáng kính cũng liều như ai!
Cuộc đời đen trắng đổi thay,
Mỗi ngày thêm khổ, thêm cay thêm buồn.
Không, không đời vẫn chưa buồn,
Sự tình thấu tỏ ngọn nguồn mới hay.
Khi nghe nhốn nháo bên tai,
Tôi xồng xộc đến, thấy ngay … thấy gì ?
Than ôi lão Hạc sắp đi,
Mắt long sòng sọc, mép sùi bọt ra.
Áo quần xộc xệch bê tha,
Vật vạ tru tréo đến hai giờ thì…
Cái tử tưởng bất đắc kì (3)
Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh chi.
Nhưng tôi, tôi biết lão đi,
Mảnh vườn không bán chỉ vì con trai.
Lão nài tôi giúp một tay,
Làm văn tự nhượng nhờ cai quản dùm.
Lại thêm tuổi yếu chân run,
Có ba chục bạc mồ vun gọi là…
Đỡ lo hàng xóm phiền hà,
Liệu toan vất vả tang ma bận người.
Lão Hạc ơi, lão Hạc ơi,
Đây vườn lão kí nhượng tôi ngày nào.
Đừng lo tôi hứa cắm rào,
Chờ con trai lão sẽ giao vườn nhà.
Bảo y : vườn đất dẫu sao.
Cụ anh thà chết, một sào vẫn nguyên.
Lão Hạc lão cứ ngủ yên,
Trước người khuất bóng, tôi nguyền khôn quên…
****
Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn,
Yêu thương tin tưởng đời luôn dạt dào…