Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


“Đôi ta như thể con dao
Năng liếc nên sắc, năng chào nên thương”
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”
“Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu”
“Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.

tham khảo
"Một cây làm chẳng nên non..........""Yêu nhau ba bốn núi cũng trèoBốn sông cũng lội, năm đèo cũng qua""Một thương tóc bỏ đuôi gàHai thương ăn nói mặn mà có duyên...""Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ"
“Đôi ta như thể con dao
Năng liếc nên sắc, năng chào nên thương”
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”
“Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu”
“Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
- Đàn ông xây nhà, đàn bà giữ tổ ấm.
- Chồng như giỏ, vợ như hom,
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
- Cha là bóng cả ngàn đời, mẹ là dòng suối để con tựa vào.
- Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha.
- Cau non về hạt, gái đảm về chồng.
- Bà phải có ông, chồng phải có vợ.
- Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng người.
- Giận thì mắng, lặng thì thương.
- Con ho lòng mẹ tan tành / Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ / Năm canh dài, mẹ thức đủ năm canh.
- Con hơn cha là nhà có phúc.
- Con có cha như nhà có nóc.
- Khôn ngoan nhờ ấm cha ông, làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
- Con cái trong nhà hòa thuận là trên hết.
- Chim có tổ, người có tông.
- Cháu bà nội, tội bà ngoại.
- Máu chảy, ruột mềm.
- Con người có tổ, có tông / Như cây có cội, như sông có nguồn.
- Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.
- Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
- Yêu nhau từ thuở trong nôi. Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru.
- Anh em thuận hòa là nhà có phúc.
- Trẻ vui nhà, già vui cửa.
- Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
- Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm.
- Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để phúc cho con.
- Một túp lều tranh, hai trái tim vàng.
- Vợ hiền dâu thảo, gia đình yên vui.
- Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
- Gia đạo vững bền, hạnh phúc mãi mãi.
- Gia đình là nơi ta được yêu thương vô điều kiện.
- Vợ chồng chung sức, con cái hòa đồng.
- Bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng.
- Của chồng công vợ.
- Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.
- Chẳng tu, vắng vợ cũng như tu.
- Bà phải có ông, chồng phải có vợ.
- Cưới vợ xem tông, lấy chồng xem giống.
- Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
- Vợ chồng là duyên nợ.
- Gái có công chồng chẳng phụ.
- Của chồng công vợ.
- Mình với ta tuy hai mà một.
- Chồng gần không lấy, lấy chồng xa.
- Vợ chồng là nghĩa phu thê.
- Chồng là cây cột, vợ là dây leo.
- Ai đem dùi đục đi hỏi vợ.
- Chồng nào vợ nấy.
- Chồng như đó (giỏ), vợ như hom.
- Ả hợp cùng anh duyên ưa phận đẹp.
- Ả Chức chàng Ngưu.
- Chẻ củi xem thớ, lấy vợ xem tông.
- Ấm oái như hai gái lấy một chồng.
- Vợ chồng đạo nghĩa cho bền / Bạn bè chung thủy, dưới trên đàng hoàng.
- Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha / Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con.
- Chồng đẹp, vợ đẹp những nhìn mà no.
- Chồng đã giận, vợ bớt lời.
- Chồng tới, vợ phải lui.
- Một câu nhịn bằng chín câu lành.
- Đánh vợ, đánh con, chẳng còn tình nghĩa.
- Vợ chồng phải kính trọng lẫn nhau.
- Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
- Vợ chồng là nghĩa phu thê, đừng vì nóng giận mà đi sai đường.
- Đánh vợ là tự đánh vào nhân cách.
- Cơm lành, canh ngọt, gia đình mới bền lâu.
- Vợ chồng hòa thuận, gia đình mới bền.
- Đánh mất niềm tin, khó tìm lại hạnh phúc.
- Đánh con mất cha, đánh vợ mất chồng.
- Yêu nhau thương lấy nhau, đừng vì nóng giận làm khổ lẫn nhau.
- Gia đình là chốn bình yên, đừng biến nó thành chiến trường.
- Tình cảm gia đình là tài sản vô giá.
- Một điều nhịn, chín điều lành.
- Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Gia đình hòa thuận, cuộc sống an lành.
- Anh em thuận hòa là nhà có phúc.
- Chị ngã em nâng.
- Máu chảy ruột mềm.
- Anh em hạt máu sẻ đôi.
- Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em.
- Anh em như chông như mác.
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
- Anh em như thể tay chân.
- Chia ngọt sẻ bùi, anh em khăng khít.
- Lá rụng về cội, anh em một nhà.
- Nhà có anh có em, việc lớn việc nhỏ đều yên ổn.
- Anh em hòa thuận, gia đình bền lâu.
- Tình anh em bền chặt như vàng mười.
- Hòa thuận là cái gốc của gia đình.
- Tình nghĩa anh em chẳng gì sánh được.
- Đi việc làng giữ lấy họ, đi việc họ giữ lấy anh em.
- Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.
- Anh em hiền thật là hiền,
- Bởi một đồng tiền nên mất lòng nhau.
- Mẹ giàu con có, mẹ khó con không.
- Mẹ dạy thì con khéo, cha dạy thì con khôn.
- Tử hiếu song thân lạc, gia hòa vạn sự hưng.
- Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
- Con có cha như nhà có nóc.
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
- Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
- Mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ ngoảnh lại con khôn.
- Con hơn cha là nhà có phúc.
- Cơm mẹ nấu, canh cha chan.
- Con hiếu thảo, nhà luôn hạnh phúc.
- Nề nếp gia phong là giá trị quý báu.
- Gia đình là nơi hội tụ tình yêu thương.
- Mẹ là tất cả mẹ ơi!
- Trăm năm mẹ gánh đời con lưng còng.
- Cha là hoa phấn giữa đời,
- Thiên thu tình mẹ rạng ngời tâm con.
- Trăng khuya trăng rụng xuống cầu
- Vì con cha mẹ dãi dầu nắng mưa.
- Con cái hiếu thuận, gia đình hưng thịnh.
- Bà phải có ông, chồng phải có vợ.

Nguyễn Văn Trỗi (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một liệt sĩ, chiến sĩ Cộng sản đã thực hiện vụ ám sát không thành nhằm vào phái đoàn quân sự cao cấp do Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara và đại sứ Henry Cabot Lodge, Jr. đến thăm Việt Nam Cộng hòa vào tháng 5 năm 1964 để hoạch định sách lược chiến tranh ở Việt Nam[1]. Anh bị bắt giam và bị tòa án quân sự Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình.
Sau sự kiện này, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tôn vinh anh là một chiến sỹ chống Mỹ anh hùng và truy tặng anh danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tiểu sửNguyễn Văn Trỗi sinh ngày 1 tháng 2 năm 1940 tại làng Thanh Quýt nay là thôn Thanh Quýt 4, xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Theo tục lệ người miền nam thì con đầu là anh Hai/ chị Hai, anh là con thứ ba nên còn có tên là Tư Trỗi. Thân phụ anh là ông Nguyễn Văn Hóa (tự Thoàn) từng tham gia cách mạng thời chống Pháp; anh ruột là Nguyễn Văn Toàn, cũng từng tham gia cách mạng, hoạt động vùng Điện Bàn - Đà Nẵng.
Lúc nhỏ, anh Trỗi học tiểu học ở trường Miếu Xóm do thầy giáo Nguyễn Văn Nhung dạy.[2] Người cha vào Sài Gòn làm ăn. Bốn chị em được mẹ rau cháo nuôi qua ngày. Mẹ mất vì quá cơ cực khi anh chưa tròn 10 tuổi, để lại 4 chị em ở với bác ruột, một buổi phụ giúp đồng áng, một buổi đi học.[3]
Năm 13 tuổi, anh theo người anh thứ ba Nguyễn Văn Toàn lúc đó đang làm công cho một hãng bánh kẹo ở Đà Nẵng để học nghề may. Anh đã làm đủ nghề từ công nhân hãng kẹo đến học may. Học may hai năm trời, người chủ chỉ giao anh làm khuy nút và làm việc nhà mà không chỉ nghề.
Đến mùa hè năm 1956, ngày đó bến sông Hàn có tàu Nam Việt đang chuẩn bị khởi hành, anh Trỗi (lúc đó được 16 tuổi) đã lén lấy 900 đồng của anh trai, mua vé tàu vào Sài Gòn.[4] Anh gửi cho anh trai lá thư từ biệt lời lẽ tha thiết.[3]
Vào Sài Gòn, anh ở nhà trọ tại nhà bác Ba Nhân (người cùng quê), ban đầu đi đạp xích lô kiếm sống. Về sau anh học thêm nghề thợ điện, ban ngày làm thuê, ban đêm học lý thuyết ở Trường Bá Nghệ (nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng). Sau anh vào làm công nhân tại Nhà máy điện Chợ Quán. Lúc còn sống, anh ao ước đất nước hòa bình, sẽ mở một tiệm sửa đồ điện, cả nhà sống bằng nghề đó.[5]
Gia đìnhNgày 9 tháng 2 năm 1963, Nguyễn Văn Trỗi lần đầu gặp gỡ chị Phan Thị Quyên (sinh năm 1944), qua sự mai mối của chị họ cùng làm công nhân tại hãng bông Bạch Tuyết. Quê nội chị Quyên ở thôn Văn Giáp (xã Bạch Đằng, huyện Thường Tín, Hà Đông cũ, nay thuộc Hà Nội). Từ năm 1917, người dân thôn Văn Giáp đã phiêu bạt tứ xứ, nhiều người vào Nam Bộ kiếm sống. Năm 1937, bố mẹ chị Quyên cũng vào Nam. Lúc đầu họ tá túc ở đồn điền Chúp thuộc tỉnh Kampong Cham, Campuchia; cụ ông làm nghề cắt tóc, cụ bà bán hàng xén. Vì tham gia hoạt động yêu nước nên cụ ông bị lùng bắt, phải trốn về Sài Gòn vào năm 1956. Về Sài Gòn, gia đình chị Quyên sống ở 104 Lê Quốc Hưng (nay thuộc phường 12, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh).[6]
Ngày 21 tháng 4 năm 1964 (ngày 10 thá
áng 3 âm lịch), hai người làm đám cưới. Sau ngày cưới, vợ chồng anh cùng người cháu tên Hứa về ở chung nhà với một gia đình đồng hương tại số 1701, ấp Tây Ba, gần xứ đạo Bùi Chu - Phát Diệm.
Chỉ 19 ngày sau lễ kết hôn thì Nguyễn Văn Trỗi bị bắt. Vợ anh cũng bị giam giữ vài ngày sau đó nhưng được thả ra vì không có bằng chứng kết tội. Hai người chưa có con với nhau.[7] Tháng 2 năm 1965, bà Phan Thị Quyên tham gia đội biệt động 65 đóng tại Long An, rồi được điều chuyển về R (Trung ương Cục). Tháng 3 năm 1965, bà dự đại hội phụ nữ toàn miền Nam và được nhà báo Trần Đình Vân, phóng viên báo Giải Phóng, viết bút ký “Sống như anh”. Tháng 5 năm 1969, bà Quyên tập kết ra miền Bắc. Đến năm 1973, bà lập gia đình mới. Năm 1980, sau khi ra trường, bà về công tác tại Công ty Du lịch TP.HCM cho đến khi nghỉ hưu.[8] Năm 2019, gia đình bà Phan Thị Quyên xác nhận bà đã từ trần lúc 4 giờ 41 phút sáng ngày 4 tháng 7 năm 2019 tại nhà riêng, hưởng thọ 75 tuổi.[9]
Sự nghiệp Cách mạngĐến giữa năm 1963, anh Trỗi được anh Lê Đức Hiền (Tư Kiếm, tên thật là Nguyễn Hữu Kiếm), anh họ nhận vào tổ biệt động cùng lúc với Nguyễn Hữu Lời. Cả bốn người cùng quê ở làng Thanh Quýt và lúc đó đều cư ngụ ở quanh vùng Vườn Xoài, đường Trương Minh Giảng. Thời gian này, anh Trỗi ở tại nhà Tư Kiếm.
Đến tháng 10 năm 1963, Nguyễn Văn Trỗi tranh thủ về thăm quê, đây là lần thăm nhà cuối cùng của anh. Dịp này anh ghé thăm thầy giáo Nhung, theo lời kể của thầy, lúc đó anh đã dùng gai bồ kết khắc lên cây cau trước nhà thầy: “15.10.1963”, sau đó vào lại Sài Gòn.
Đầu năm 1964, nhân dịp Tết, Tư Kiếm đã bố trí cho anh Trỗi và Nguyễn Hữu Lời ra căn cứ ở Rừng Thơm (nay thuộc huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) gặp Ban chỉ huy cánh tây nam, hai anh ở lại căn cứ 3 ngày, coi như dự lớp chính trị ngắn ngày, kết hợp học một số “miếng” võ hiểm để phòng thân.
Từ căn cứ về, anh Trỗi chọn ngay mục tiêu “đánh thí điểm” là cư xá Mỹ ở đường Cao Thắng. Sau khi báo cáo, kế hoạch của anh được đồng chí Tư Đạt - Chính trị viên cánh tây nam cho phép và tặng một quả lựu đạn da láng của Mỹ. Bằng quả lựu đạn này và cách đánh thông minh của mình, anh đã tiêu diệt gọn bốn tên Mỹ và làm bị thương tám tên.[10]
Sau đó anh tìm hàng loạt mục tiêu như tàu hải quân Mỹ đóng tại bến Bạch Đằng, nhà máy điện... để xin đánh, nhưng tổ chức không cho mà chuẩn bị kế hoạch khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara đến miền Nam Việt Nam.[11][12]
Đội Biệt động thành Sài Gòn 65 lúc đó đa số là cán bộ của đội Quyết tử thành chín năm chống Pháp còn sống sót. Họ trở thành bộ phận tham mưu chỉ đạo đánh nguỵ Sài Gòn. Mỗi khi họp các tổ, có khi ba người, có khi năm người thì chỉ có những người đó biết thôi vì hoạt động trong lòng địch. Với điều kiện như vậy, trong tổ chỉ lấy ra bốn người là Lê Đức Hiền (Tư Kiếm) làm tổ trưởng, anh Nguyễn Hoàng Sơn (anh của anh Lê Đức Hiền) làm tổ phó, Nguyễn Hữu Lời và Nguyễn Văn Trỗi có trong tổ nhận nhiệm vụ ám sát McNamara.
Sự kiện đặt mìn ở cầu Công LýKế hoạch
Từ năm 1960, quân Giải phóng ở chiến trường miền Nam liên tiếp mở các đợt tiến công với quy mô lớn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, làm nên phong trào Đồng khởi, kiểm soát một phần đáng kể ở nông thôn miền Nam. Tiếp đó, họ thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, dưới sự chỉ huy của tướng Dương Văn Minh đã diễn ra cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và còn xử bắn Ngô Đình Cẩn. Biết tin này, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy và người kế nhiệm là Lyndon B. Johnson hết sức bất ngờ. Thất bại liên tiếp trên chiến trường và tình hình chính trị rối loạn của Việt Nam Cộng hòa, làm cho Hoa Kỳ phải hủy bỏ kế hoạch Staley-Taylor, rồi đưa quân đội sang trực tiếp tham chiến đấu ở miền Nam, thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ.
Trong bối cảnh đó, để có cách đối phó kịp thời, phía Mỹ đã phải cử các phái đoàn sang thị sát tình hình thực tế ở chiến trường miền Nam. Biết tin phái đoàn quân sự cấp cao của Mỹ do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu sẽ đến Sài Gòn thị sát chiến trường vào tháng 5 năm 1964, lực lượng biệt động Sài Gòn liền vạch kế hoạch tiêu diệt chúng.
Ba phương án tác chiến được Ban chỉ huy cấp trên nhanh chóng thông qua: Thuê một căn nhà cạnh đường Công Lý, mìn định hướng đặt trong nhà, việc câu dây, bảo vệ trái mìn dễ dàng, thuận tiện hơn, không lo bị phát hiện. Phương án hai là chôn hai trái mìn gần đầu cầu Công Lý đón xe của McNamara qua cầu, vừa xuống dốc thoai thoải thì mìn nổ. Phương án ba, nếu McNamara không vào thành phố theo đường Công Lý thì tiếp tục theo dõi, đón đánh khi McaNamara rời Sài Gòn. Công việc đang được chuẩn bị thì Tổ biệt động của ông nhận thông báo: Phái đoàn của McNamara sẽ tới Sài Gòn vào Thứ Hai, ngày 11 tháng 5 năm 1964, tức là sớm hơn dự kiến hai tuần.
Vì Nguyễn Văn Trỗi mới lập gia đình nên không được tham gia trong đội giết Mcnamara. Bộ chỉ huy Sài Gòn Gia Định chỉ cử ba người là Lê Đức Hiền, Nguyễn Hoàng Sơn (Ba Sơn) làm nghề lái xe ôm; Nguyễn Hữu Lời (19 tuổi) làm nghề hớt tóc, anh em con cô, con cậu ruột của Lê Đức Hiền. Họ chỉ nhờ anh Trỗi là thợ điện coi lại dây điện, thử xem có vướng mắc gì hay không. Nhưng anh Trỗi không chịu, đòi phải ra chiến đấu. Thời gian quá gấp, Mc Namara sắp qua rồi, đội không kịp về trên báo cáo. Theo quy định, anh Trỗi phải ký vào sổ quyết tử rồi mới được đi đánh. Anh Trỗi không được kí vào quyển sổ đó, mà Nguyễn Hữu Lời đã cầm bút ký vào đó. Tinh thần giết Mỹ của anh Trỗi quá cao, nên anh Hiền phải chấp nhận, chứ đúng ra là việc này sai nguyên tắc.
Không kịp thuê nhà đặt mìn, họ đành thực hiện phương án hai. Công việc tiếp theo là khéo léo nhận vũ khí từ căn cứ đưa vào. Vũ khí gồm 2 trái mìn DH10 loại 8 kg được đưa an toàn về nhà Ba Sơn. Ba Sơn có nhiệm vụ đưa trái mìn từ nhà ra bờ cây trước chùa Vĩnh Nghiêm. Trái mìn được cho vào thùng sắt cũ từ lâu dùng chứa dầu hôi. Phía trên trái mìn là lớp xi măng chết gắn chặt vào thùng. Tư Kiếm họp anh em trong tổ bàn lại kế hoạch đưa mìn tới bãi rác gần cầu Công Lý. Ba Sơn kéo xe ba gác, trên chất gạch, cát, xi măng chết, quả mìn 8 kg giấu trong thùng. Nguyễn Hữu Lời cầm tập sách đóng vai một học sinh lảng vảng ở cầu để báo hiệu cho Ba Sơn vào cầu lúc địch bớt chú ý tới người qua lại. Tư Kiếm thủ trong người một quả lựu đạn đi theo bảo vệ Ba Sơn. Còn Nguyễn Văn Trỗi chờ ở ngã tư Yên Đỗ - Trương Minh Giảng, sẵn sàng...

Abraham Lincoln: Từ kẻ thất bại thảm hại đến Tổng thống vĩ đại nhất Hoa Kỳ.
Lincoln được sinh ra trong một căn nhà gỗ ở biên giới nước Mỹ. Mẹ ông mất khi ông còn nhỏ và cha ông đã đi bước nữa. May mắn cho ông có được người mẹ kế quan tâm và luôn khuyến khích ông đọc sách.
Với vốn kiến thức tối thiểu, ông tiếp xúc với những công việc tay chân khi vào tuổi trưởng thành. Lincoln làm nông cho một chủ trại giàu có trong vùng, làm người khuân vác và bán đồ tạp hóa.
Sự chuyển biến thần kỳ đến với Lincoln, khi ông bắt gặp một cuốn sách luật trong giỏ tạp hóa cũ được ông mua với giá 50 xu. Khi này, ông được 21 tuổi, làm việc trong cửa tiệm bách hóa, thời gian rảnh rỗi ông đọc cuốn sách luật và từ đó nhen nhóm trong ông một đam mê ngành luật.
Dù không thành công lắm trong thời gian đầu làm chính trị, quan điểm về chế độ nô lệ ở buổi tranh luận Lincoln-Douglas đã gây được sự chú ý của dư luận và tại hội nghị Đảng Cộng hòa năm 1860, ông được bổ nhiệm làm Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ.
Lincoln được tuyển cử vào Nhà Trắng không phải là một sự ngẫu nhiên nhưng sự chia rẽ bè phái giữa miền Nam và miền Bắc của Đảng Dân chủ đã tạo thuận lợi cho ông. Trong nội bộ Đảng Cộng hòa, Lincoln có lá phiếu nhiều hơn đối thủ cạnh tranh trực tiếp, William Seward, bởi vì ông được đánh giá là một ứng cử viên ôn hòa, yêu hòa bình.
Vào thời điểm ông tuyên thệ làm Tổng thống, 7 bang đã tan rã khỏi Liên bang vì vấn đề nô lệ, thế nhưng vị Tổng thống thứ 15 và sắp mãn nhiệm, Buchanan và bộ máy chính quyền dưới thời không thể kiểm soát nổi tình hình và phải từ bỏ.
Mặc dù Liên bang đang trong tình trạng lộn xộn và thiếu tài trợ, Quốc hội vẫn tìm cách cắt giảm chi phí và chỉ có Lincoln thấy được cần phải có hành động triệt để nếu muốn duy trì Liên bang và xóa bỏ chế độ nô lệ.
Quyết đoán và nghị lực, sự quyết tâm thay đổi khiến mọi người ngạc nhiên. Ông bổ nhiệm William Seward, đối thủ không đội trời chung trước kia, làm Tổng thư ký và Edwin Stanton làm Bộ trưởng chiến tranh. Cả hai người ban đầu đều coi thường “gã nông dân” Lincoln, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó họ đều thay đổi quan điểm của mình.
Sau khi ông mất, nhìn Lincoln với ánh mắt kính trọng, nuối tiếc, Stanton đá thốt lên, “Đây là nhà lãnh đạo tài ba nhất của thế giới từ cổ chí kim”

Abraham Lincoln: Từ kẻ thất bại thảm hại đến Tổng thống vĩ đại nhất Hoa Kỳ.
Lincoln được sinh ra trong một căn nhà gỗ ở biên giới nước Mỹ. Mẹ ông mất khi ông còn nhỏ và cha ông đã đi bước nữa. May mắn cho ông có được người mẹ kế quan tâm và luôn khuyến khích ông đọc sách.
Với vốn kiến thức tối thiểu, ông tiếp xúc với những công việc tay chân khi vào tuổi trưởng thành. Lincoln làm nông cho một chủ trại giàu có trong vùng, làm người khuân vác và bán đồ tạp hóa.
Sự chuyển biến thần kỳ đến với Lincoln, khi ông bắt gặp một cuốn sách luật trong giỏ tạp hóa cũ được ông mua với giá 50 xu. Khi này, ông được 21 tuổi, làm việc trong cửa tiệm bách hóa, thời gian rảnh rỗi ông đọc cuốn sách luật và từ đó nhen nhóm trong ông một đam mê ngành luật.
Dù không thành công lắm trong thời gian đầu làm chính trị, quan điểm về chế độ nô lệ ở buổi tranh luận Lincoln-Douglas đã gây được sự chú ý của dư luận và tại hội nghị Đảng Cộng hòa năm 1860, ông được bổ nhiệm làm Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ.
Lincoln được tuyển cử vào Nhà Trắng không phải là một sự ngẫu nhiên nhưng sự chia rẽ bè phái giữa miền Nam và miền Bắc của Đảng Dân chủ đã tạo thuận lợi cho ông. Trong nội bộ Đảng Cộng hòa, Lincoln có lá phiếu nhiều hơn đối thủ cạnh tranh trực tiếp, William Seward, bởi vì ông được đánh giá là một ứng cử viên ôn hòa, yêu hòa bình.
Vào thời điểm ông tuyên thệ làm Tổng thống, 7 bang đã tan rã khỏi Liên bang vì vấn đề nô lệ, thế nhưng vị Tổng thống thứ 15 và sắp mãn nhiệm, Buchanan và bộ máy chính quyền dưới thời không thể kiểm soát nổi tình hình và phải từ bỏ.
Mặc dù Liên bang đang trong tình trạng lộn xộn và thiếu tài trợ, Quốc hội vẫn tìm cách cắt giảm chi phí và chỉ có Lincoln thấy được cần phải có hành động triệt để nếu muốn duy trì Liên bang và xóa bỏ chế độ nô lệ.
Quyết đoán và nghị lực, sự quyết tâm thay đổi khiến mọi người ngạc nhiên. Ông bổ nhiệm William Seward, đối thủ không đội trời chung trước kia, làm Tổng thư ký và Edwin Stanton làm Bộ trưởng chiến tranh. Cả hai người ban đầu đều coi thường “gã nông dân” Lincoln, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó họ đều thay đổi quan điểm của mình.
Sau khi ông mất, nhìn Lincoln với ánh mắt kính trọng, nuối tiếc, Stanton đá thốt lên, “Đây là nhà lãnh đạo tài ba nhất của thế giới từ cổ chí kim”
Khó mà biết lẽ biết trời
Biết ăn, biết ở hơn người giàu sang
Khúc sông bên lở bên bồi,
Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm.
Nước lớn rồi lại nước ròng,
Đố ai bắt được con còng trong hang.
Lên non cho biết non cao,
Xuống biển cầm sào cho biết cạn sâu.
Cơm ăn ba bữa thì cho,
Gạo mượn sét chén, xách mo đi đòi.