K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 4 2018

Lời giải:

Trên cơ sở nghiên cứu tàu thủy của phương Tây, năm 1839, các thợ thủ công Việt Nam đã đống được một chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước. Sự kiện nào đánh dấu bước phát triển vượt bậc của kĩ thuật đóng tàu của Việt Nam

Đáp án cần chọn là: B

3 tháng 8 2021

Thợ tủ công Nguyễn Văn Tú (thế kỉ XVIII) đã chế tạo được gì ?

A. chế tạo được máy xẻ gỗ chạy bằng hơi nước

B.tàu thủy chạy bằng hơi nước

C.làm đồng hồ và kính thiên lí

D.làm đồng hồ và kính thiên văn

3 tháng 8 2021

Thợ tủ công Nguyễn Văn Tú (thế kỉ XVIII) đã chế tạo được gì ?

A. chế tạo được máy xẻ gỗ chạy bằng hơi nước

B.tàu thủy chạy bằng hơi nước

C.làm đồng hồ và kính thiên lí

D.làm đồng hồ và kính thiên văn

"LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT VIỆT NAM"Đoàn Thị Điểm (段氏點, 1705-1749), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê Trung hưng. Bà là tác giả tập Truyền kỳ tân phả (chữ Hán), và tác giả của truyện thơ Chinh Phụ Ngâm (bản chữ Nôm – 412 câu thơ) được bà dịch từ nguyên bản Chinh Phụ Ngâm Khúc (viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn). Bà còn viết tập Nữ trung tùng...
Đọc tiếp

"LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT VIỆT NAM"

Đoàn Thị Điểm (段氏點, 1705-1749), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê Trung hưng. Bà là tác giả tập Truyền kỳ tân phả (chữ Hán), và tác giả của truyện thơ Chinh Phụ Ngâm (bản chữ Nôm – 412 câu thơ) được bà dịch từ nguyên bản Chinh Phụ Ngâm Khúc (viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn). Bà còn viết tập Nữ trung tùng phận gồm 1401 câu thơ và bài Bộ bộ thiềm-Thu từ– 步步蟾-秋詞 (tức Bộ bộ thiềm- Bài hát mùa thu). Ngoài ra còn có một số bài thơ văn khác của bà (gồm chữ Hán, chữ Nôm) được chép trong tập Hồng Hà phu nhân di văn của tiến sĩ Nguyễn Kiều mới được phát hiện gần đây.

Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Xuân Quỳnh.

Trong tư liệu của Ths.Nguyễn Hồng Chiến (là di duệ của tiến sĩ Nguyễn Kiều), Hồng Hà Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm có biệt hiệu Ban Tang, quê làng Hiến Phạm, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà vốn là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi, mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ).

Ông bà Nghi còn sinh một trai là Đoàn Doãn Luân (1703), tức là anh trai và hơn Đoàn Thị Điểm 2 tuổi. Từ nhỏ, anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái lĩnh bá và được dạy dỗ chu đáo, thông Tứ thư, Ngũ kinh… Năm 6 tuổi, Đoàn Thị Điểm nổi tiếng gần xa về tài học giỏi, thông minh.

Năm bà 16 tuổi, quan Thượng thư Lê Anh Tuấn mến mộ muốn xin làm con nuôi, để tiến cử vào cung chúa Trịnh, nhưng bà nhất định từ chối. Về sau, cha mất, gia đình phải chuyển về quê nhà, được ít lâu thì dời về làng Võ Ngai (Vô Ngại), huyện Đường Hào (nay là Mỹ Hào, Hưng Yên), tại đây Đoàn Thị Điểm cùng anh trai hành nghề dạy học.

Anh trai mất sớm, chị dâu lại tàn tật, thời gian này, bà kiêm luôn nghề bốc thuốc, gần như một tay nuôi sống cả gia đình – gồm 2 cháu nhỏ, mẹ và chị dâu. Bà được nhiều người đến cầu hôn nhưng đều từ chối.

Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh, tại Vô Ngại, cuộc sống gia đình bà cũng không ở được. Khoảng  giữa thế kỷ XVIII, những cuộc nổi dậy của nông dân xảy ra khiến vùng Hải Đông không còn cảnh yên bình, nhiều làng xóm bị binh lửa tàn phá. Đoàn Thị Điểm lại đưa cả gia đình tới nhà một người học trò tại xã Chương Dương, huyện Thược Phúc (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) để lánh nạn và sinh sống. Theo Hoàng Xuân Hãn, lúc này bà mới chính thức mở trường dạy học.

Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh cho rằng, Đoàn Thị Điểm không những nổi tiếng về tài văn thơ, mà còn giỏi đối đáp. Xung quanh bà có nhiều giai thoại khẳng định tài năng áp đảo các bậc anh tuấn trong giới nho sinh kẻ sĩ. Cũng có nhiều câu đối được ghi là của bà trong các cuộc đối đáp với Trạng Quỳnh, sứ Tàu, Nhữ Đình Toản… Những chuyện ấy dù có bao nhiêu phần trăm sự thật thì cũng chứng tỏ lòng ngưỡng mộ của thế nhân đối với bà.

Đoàn Thị Điểm được Nguyễn Thị Băng Thanh đánh giá là một người con gái có bản lĩnh, một “gia trưởng” hoàn hảo, một nữ sĩ tài hoa, gồm đủ công dung ngôn hạnh nhưng cũng ngầm mang ít nhiều tính cách trượng phu có tầm cỡ về tư tưởng và dám “phá cách”. Thế nhưng, có thể chính vì sự hoàn hảo và xuất chúng đó mà đường tình duyên của nữ sĩ muộn màng.

Không phải bà thiếu các bậc tài danh ngấp nghé, nhưng dường như cảnh nhà cũng làm bà lỡ làng năm tháng. Vào tuổi thanh xuân, tuy ở trong cửa nhà quyền quý nhưng con đường gia thất lại chỉ có thể hướng tới cung nhà chúa, với cái cảnh “chiếc én ba nghìn” biết chen cành nào trên cây cù mộc? Bản lĩnh và tâm hồn nữ sĩ khiến bà không thể chấp nhận được sự sắp đặt ấy. Sau này, về gần kinh thành, với hoàn cảnh đơn hàn, bà càng được để ý. Nhưng nữ sĩ đã liệu lời từ chối tất cả và lẩn tránh, chấp nhận cuộc sống cô đơn để toàn tâm toàn ý phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy các cháu.

Đoán được quan lộ cho chồng, biết trước mình sắp mất

Nhiều tài liệu cho biết, mặc dù hết lần này đến lần khác “khất” không lấy chồng, nhưng rồi, Đoàn Thị Điểm đã “cập bến” bên tiến sĩ Nguyễn Kiều (1695 – 1752, sinh tại làng Phú Xá, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nộ). Theo tài liệu từ nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Kiều nổi tiếng đương thời là người giỏi văn thơ, năm 1715, đỗ tiến sĩ, sau đó được bổ dụng và đến năm 1740 được trao chức Quyền thự thiêm đô Ngự sử, một chức quan cần có bản lĩnh vững vàng và chính trực liêm khiết.

Trước khi được Đoàn Thị Điểm chấp nhận về làm vợ, Nguyễn Kiều đã có hai người vợ trước, nhưng đều mất sớm. Mối tình giữa Nguyễn Kiều và Đoàn Thị Điểm được coi là mối tình đẹp, nức tiếng Thăng Long xưa, năm đó, Đoàn Thị Điểm đã 37 tuổi. Nguyễn Kiều phải viết mấy bức thư với lời lẽ khẩn thiết, thê lương, rồi những lời khuyên bàn từ người thân, Đoàn Thị Điểm mới nhận lời. Nguyễn Kiều đã có thơ sau khi lấy được Đoàn Thị Điểm:

Nhân duyên gặp gỡ nhất trần gian

Cả cuộc đời ta được phúc ban

Ai bảo khát khao tiên nữ nữa

Nàng tiên đã xuống cõi nhân hoàn

Trong tư liệu từ di duệ Nguyễn Kiều, cho biết, cưới nhau được hơn một tháng, Nguyễn Kiều phải lên đường đi sứ phương Bắc, bà ở nhà coi sóc gia trang, xem con chồng như con đẻ, dạy dỗ thay làm cha, làm thầy. Nào ngờ cuộc đi sứ kéo dài đến ba năm. Nguyễn Kiều về đến Nam Ninh nhưng không qua biên giới được vì Lạng Sơn có loạn phải chờ đợi dẹp xong loạn mới về. Trong ba năm chờ chồng, Đoàn Thị Điểm sống chẳng khác nào người “chinh phụ”. Có lẽ chính trong thời gian này (1742 – 1745), bà đã dịch ra quốc âm tác phẩm Chinh phụ ngâm nổi tiếng của Đặng Trần Côn.

Năm 1746, ba năm chờ chồng dài đằng đẵng vừa kết thúc, bà lại phải khăn gói, từ biệt mẹ già cháu nhỏ để sang Nghệ An, nơi Nguyễn Kiều mới được bổ nhiệm.

Tư liệu từ di duệ Nguyễn Kiều cũng dẫn lại sách Đoàn Thị Thực lục còn chép lời đoán của bà về vận mệnh chồng, cũng đoán trước về việc sắp rời bỏ dương thế của mình: “Mùa hè năm Mậu Thìn (1748), một ngày kia xong việc công, ông vào tư thất, nói chuyện cùng bà và phê bình thơ, tra từ điển văn cũ định xếp thành thi văn tập của đôi vợ chồng. Thình lình, rèm tung lên, gió cuốn, bui bay. Bà ngồi lặng, ngẫm nghĩ, bấm đốt tay mà suy tính. Rồi bà bảo ông rằng: “Bắc khuyết vân bình chiêu thiếp thụy, Nam thù xuân vũ trước quân ân”, được dịch, “Cửa Bắc xe mây điềm thiếp rõ, Bờ Nam mưa ấm tỏ ơn vua”.

Ý Đoàn Thị Điểm muốn nói rằng luồng gió vừa qua là điềm bà sắp mất, và Nguyễn Kiều sắp được thăng chức và dời vào miền Nam. Nguyễn Kiều hỏi Đoàn Thị Điểm, hỏi đi hỏi lại nhưng bà không giảng thêm gì nữa. Chưa qua dăm ba ngày sau, thì quả nhiên ông được lệnh vào coi việc trấn an Nghệ An.

Ông bảo bà cùng đi. Bà lấy cớ bận việc nhà, xin ở lại, giả nói rằng xin sẽ đi sau. Nhưng ông cố nài, bất dắc dĩ, bà phải nghe. Hai người xuống thuyền trẩy vào xứ Nghệ. Chắc là đêm lạnh, bà ngủ quên không đắp chăn, nên cảm hàn. Bà liền đau, cố gắng gượng ăn uống, nhưng bệnh tình càng ngày càng nặng. Năm sáu ngày sau, thuyền đến trấn Nghệ An, ấy là vào ngày 4/8. Bệnh đã nguy kịch, chồng chạy khắp nơi, cầu cúng hết đền chùa, nhưng không công hiệu, đến ngày 9/11/1748 (âm lịch), Đoàn Thị Điểm qua đời, hưởng dương 44 tuổi.

Ths.Nguyễn Hồng Chiến đánh giá: Sự kính yêu của người đời sau với Đoàn Thị Điểm không chỉ vì văn tài thi văn điêu luyện, đặc sắc, còn vì bà có những phẩm chất cao quý, đức hạnh tốt đẹp xứng đáng là mẫu phụ nữ tiêu biểu của xã hội Việt Nam ở mọi thời đại.


THAM KHẢO

CHÚC MỘT NGÀY TỐT LÀNH

3

ui hay bạn tự nghĩ à 😁😁😁

MÌNH COP TRÊN MẠNG VÀI TỪ HÁN THÌ CŨNG KHÓ MÀ CỨ ĐỌC ĐI ;D

I . Kinh tế thời trần :Nông nghiệp : -Thực hiện nhiều chính sách khuyến khích nên nông nghiệp được phục hồi và phát triển . -Ruộng khai hoang mở rộng gồm ruộng công và ruộng tư,điền trang , thái ấp của quý tộc ,vương hầu , ruộng của địa chủ ngày càng nhiều. -Ruộng đất công làng xã chiếm ưu thế về diện tích, chia cho nông dân cày cấy và nộp thuế , là nguồn thu...
Đọc tiếp

I . Kinh tế thời trần :

Nông nghiệp :

-Thực hiện nhiều chính sách khuyến khích nên nông nghiệp được phục hồi và phát triển .

-Ruộng khai hoang mở rộng gồm ruộng công và ruộng tư,điền trang , thái ấp của quý tộc ,vương hầu , ruộng của địa chủ ngày càng nhiều.

-Ruộng đất công làng xã chiếm ưu thế về diện tích, chia cho nông dân cày cấy và nộp thuế , là nguồn thu nhập chính của nhà nước.

-Cho đắp đê quai vạc từ đầu nguồn tới bờ biển.

*Thủ công nghiệp phát triển :

-Mở rộng xưởng thủ công nhà nước, trình độ kỹ thuật được nâng cao, như dệt tơ lụa ,đóng được thuyền lớn đi trên biển, chế tạo được súng.

-Hàng thủ công trong nhân dân tăng như làm gốm , rèn sắt , đúc đồng , làm giấy …….

-Thợ thủ công cùng nghề họp thành làng nghề ở nông thôn như làng gốm -Bát Tràng ,tại Thăng Long thành phường nghề .Trình độ kỹ thuật và mặt hàng sản xuất được thống nhất và nâng cao về chất lượng.

*Buôn bán tấp nập, các chợ ra đời , buôn hàng chuyến bằng thuyền .

-Trung tâm buôn bán là Thăng Long. Nam Xang

-Vân Đồn là nơi buôn bán với thương nhân nước ngoài.

* Nhận xét: kinh tế phát triển và phục hồi .

II . Văn hóa giá dục thời Lý

Giáo dục :
- Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long. Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Nhà nước quan tâm đến giáo dục, khoa cử. Năm 1076, mở Quốc tử giám - trường đại học đầu tiên của nước ta. Chế độ thi cử chưa đi vào nền nếp và quy củ. Việc xây dựng Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt.
- Văn học chữ Hán bước đầu phát triển.
-Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc chuông...

Văn hóa :
- Hoạt động ca hát. nhảy múa, trò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc... đều phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng thời Lý.
- Kiến trúc rất phát triển, tiêu biểu là tháp Báo Thiên, chùa Một Cột...
- Nghệ thuật tinh xảo, thanh thoát, tiêu biểu là rồng thời Lý...
Những thành tựu về văn hoá, nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc — Văn hoá Thăng Long.

III . Cho biết việc Ngô quyền từ bỏ chức Tiết độ sứ phản ánh điều gì.

.Em có nhận xét gì về tổ chức nhà nước thời Ngô Quyền ?

-Tiết độ sứ là tên của một chức có nguồn gốc từ Trung Quốc, vì vậy Ngô Quyền đã bỏ chức tiết độ xứ của mình ý khẳng định đất nước không lệ thuộc vào Trung Quốc, khẳng định lòng yêu nước của Ngô Quyền. Thêm một ý phụ nữa là Ngô Quyền xưng vương là vì muốn khẳng định chủ quyền dân tộc.

- Mặc dù đã có chính quyền từ trung ương đến địa phương, nhưng tổ chức này còn đơn giản (giúp việc cho vua là các quan văn, quan võ và thứ sử ờ các địa phương). Việc xây dựng chính quyền mới của Ngô Quyền đã đặt nền móng cho một quốc gia độc lập, thống nhất.

4. Những chủ trương của nhà Lý đối với các nước láng giềng để lại bài học gì đối với công việc bảo vệ biên giới , hải đảo
- Chủ trương của nhà Lý đối với các nước láng giềng để lại bài học cho chúng ta là phải mền dẻo tránh,hạn chế tối đa chiến tranh nhưng vẫn phải kiên quyết,cúng dắn đúng lúc để các nước láng giềng nể phục ta

5

Vũ Thùy Linh cái giề vại bạn ? sao tự nhiên đăng lên n` vại ?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

chả thấy câu hỏi nào hay bạn gửi cho ai ak?

 

hiha

17 tháng 12 2016

Bạn ơi là bạn Vũ Thùy Linh, câu đó ở câu trả lời chứ đâu phải là vào câu hỏi đâu bạn !!!

Dân tộc ta có truyền thống: “Tôn sư trọng đạo”, nét đẹp ấy đã được bao thế hệ người Việt Nam kế thừa và phát triển.Từ xưa, ca dao đã có câu:Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Được coi trọng như vậy bởi người thầy luôn tượng trưng cho những gì chuẩn mực, đạo lý và người thầy còn có sứ mệnh cao quý là truyền đạo lý cho mọi người, nhất...
Đọc tiếp

Dân tộc ta có truyền thống: “Tôn sư trọng đạo”, nét đẹp ấy đã được bao thế hệ người Việt Nam kế thừa và phát triển.


Từ xưa, ca dao đã có câu:

Muốn sang thì bắc cầu kiều
 

Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
 

Được coi trọng như vậy bởi người thầy luôn tượng trưng cho những gì chuẩn mực, đạo lý và người thầy còn có sứ mệnh cao quý là truyền đạo lý cho mọi người, nhất là cho các thế hệ học trò của mình, giúp họ trở nên người có học vấn, có nhân cách tốt đẹp, có năng lực giúp ích cho đời, cho dân, cho nước.
 

Bác Hồ đã từng nói: “Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang”.
 

 

Nhà giáo được vinh danh là “Kỹ sư tâm hồn”, nghề dạy học được vinh danh là “Nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Ngày nay, có biết bao nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú và hàng triệu giáo viên khác – những người đang mang tâm huyết, trí tuệ, không quản khó khăn, gian khổ, cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”. Những người thầy ấy luôn được coi trọng. Tôn vinh người thầy đã trở thành đạo lý, thành tình cảm tự nhiên của mỗi người chúng ta.
 

Mỗi năm, khi sắp đến ngày 20-11 lòng chúng tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả, những mong nhớ, nuối tiếc về thời đi học đã qua, những kỷ niệm về thầy cô và những người bạn học đã mãi mãi đi xa để giữ lấy bình yên cho Tổ Quốc. Ngày 20-11 là ngày ân tình, thầy cô giáo chúng tôi đón nhận tình cảm của toàn xã hội, tình cảm chân thành của học trò làm chúng tôi thật sự xúc động, thấy ấm lòng hơn khi nhìn những ánh mắt trong sáng, những câu nói, nụ cười thân thương, sự quan tâm lo lắng của các em làm chúng tôi quên đi bao mệt mỏi của bộn bề công việc, những lo toan trong cuộc sống hàng ngày.
 

Ngày nay, chúng ta đang sống, làm việc trong những điều kiện thuận lợi hơn trước, song cũng rất nhiều thách thức đang đặt ra cho các nhà giáo như: vấn đề đổi mới căn bản nền giáo dục đại học Việt Nam, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong hội nhập, đào tạo theo nhu cầu xã hội... Hơn ai hết, với vai trò là người thầy “Thay Đảng rèn người”, chúng tôi ý thức được trách nhiệm của mình phải bồi dưỡng tri thức, làm chủ công nghệ, khắc phục những khó khăn bằng sức lực, trí tuệ và lòng yêu nghề. Điều đó đòi hỏi mỗi nhà giáo phải có bản lĩnh, vừa giữ được phẩm chất tốt đẹp của nghề nghiệp cao quý vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về tri thức, về kiến thức chuyên môn, về nghiệp vụ sư phạm sao cho phù hợp.
 

Những thành tựu mà trường Đại học Hà Tĩnh đã đạt được, cho đến nay đã ghi đậm dấu ấn, công lao của bao nhà giáo. Trường của chúng ta đã và đang phát triển mạnh mẽ, cơ sở vật chất ngày càng khang trang, đội ngũ gần 300 cán bộ, giảng viên, và hơn 9.000 HSSV của cả trường với tâm huyết, năng lực, ý thức trách nhiệm và tinh thần nỗ lực đang là chủ thể, là lực lượng to lớn tạo ra sự chuyển biến phát triển của nền giáo dục nước nhà.
 

Mỗi ngày đi qua, trên gương mặt của mỗi thầy cô, hằn sâu bao nhọc nhằn, bao vất vả của đời thường, nhưng chỉ có ánh mắt vẫn sáng lên một niềm tin, một tình yêu đối với nghề vô bờ bến. Chúng tôi là những cán bộ, giảng viên của trường Đại học Hà Tĩnh, xin hứa sẽ tiếp tục thắp sáng niềm tin ấy, thắp sáng lý tưởng cao quý mà các thế hệ thầy cô đã giữ gìn; sẽ tiếp tục kế thừa và phát huy những thành quả đã đạt được, nỗ lực vượt khó, sáng tạo để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp sức đào tạo thế hệ trẻ có phẩm chất, có năng lực, có khát vọng để tiếp bước cha anh dựng xây đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh.
 

Nhân ngày 20/11, xin trân trọng gửi tới các thầy, cô giáo, những lời chúc tốt đẹp, những bó hoa tươi thắm nhất! Hướng về các thầy, các cô với tấm lòng thành kính, những học trò hôm qua và những học trò hôm nay đã, đang và sẽ luôn khắc ghi trong lòng đạo lý: Uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo.
 

Chúng ta yêu nghề giáo và trọn đời thủy chung, son sắt với nghề:
 

"Viên phấn trắng hướng cuộc đời bay bổng
 

Mực đỏ chấm bài là máu chảy từ tim".

3
23 tháng 11 2016

sao

1 tháng 11 2016

câu 3 tham khảo /hoi-dap/question/115610.html

2 tháng 11 2016

2. *giống: đều do người nước ngoài đến cai trị ấn độ
*khác:
_vương triều hồi giáo Đê-li áp đặt tôn giáo,phân biệt đối xử...nên thời gian tồn tại ngắn
_vương triều Mô-gôn thi hành nhiều chính sách tiến bộ ,đặc biệt là dưới thời hoàng đế A-cơ-ba nên kinh tế ấn độ phát triển mạnh mẽ.tuy nhiên, đến thời con cháu của A-cơ-ba là Sa-gia-han và....(mình quên tên rồi) thì không còn được lòng dân như trước.kết quả là đến thời của Ao-reng-dép,vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Ấn độ,thực dân Anh đã xâm chiếm toàn bộ nước ấn

2 tháng 11 2016

3, Khi biết quân Tống có ý định tấn công Đại Việt Lý Thường Kiệt chù trương :Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc
Quân Việt bắt đầu tiến công vào đất Tống từ ngày 27 tháng 10 năm 1075. Thoạt tiên, quân Việt phá hủy một loạt các đồn trại biên giới, rồi lần lượt đổ bộ lên cảng và đánh chiếm các thành Khâm, Liêm. Sau đó đại quân tiếp tục tiến sâu vào đất địch.
Ngày 18 tháng 1 năm 1076 áp sát thành Ung. Đây là căn cứ quan trọng nhất trong những căn cứ địch dùng cho cuộc viễn chinh xâm lược vào Đại Việt. Sau 42 ngày vây hãm và tấn công quyết liệt, ta hạ được thành, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch.

Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công, đánh ngay vào đội quân mạnh nhất của địch, ngay trên hướng tiến công chủ yếu của chúng. Ông khéo kết hợp giữa tiến công và phòng ngự tích cực, giữa các cách đánh tập trung, đánh trận địa và đánh vận động. Ông vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao.
Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống (1075-1077) là một minh chứng hùng hồn về sự phát triển vượt bậc của dân tộc Việt sau một thế kỷ giành độc lập, quốc gia Đại Việt đã có đủ sức mạnh để chống lại một đế quốc lớn mạnh.

Chúc bạn học tốt

ok

10 tháng 5 2016

bạn vào tìm kiến ý nó sẽ chả lời cho 

10 tháng 5 2016

minhf vừa vào câu hỏi của bạn xong cũng có đấy ở trên đỉnh đầu ú

22 tháng 8

tuyệt


Nguyên nhân của nạn đói năm 1945 khiến khoảng 2 triệu người chết đói ở miền Bắc, chủ yếu do:

  1. Chính sách bóc lột, vơ vét của thực dân Nhật và Pháp:
    • Nhật chiếm Việt Nam từ 1940 và bắt nông dân nhổ lúa trồng đay phục vụ chiến tranh.
    • Pháp và Nhật vơ vét thóc gạo, thiêu hủy lương thực để phục vụ chiến tranh.
  2. Thiên tai:
    • Lũ lụt lớn năm 1944–1945, mất mùa nghiêm trọng ở Bắc Bộ.
  3. Chính quyền không cứu trợ:
    • Chính quyền thực dân và phong kiến không có chính sách cứu đói hiệu quả.
    • Dân chết đói "nằm la liệt trên đường", xác người "bầy hầy", đau xót vô cùng.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi to lớn, thể hiện ở các điểm sau:

  1. Nhân dân đứng lên khắp cả nước, chính quyền về tay cách mạng:
    • Chỉ trong 15 ngày (từ 14 đến 28/8), chính quyền ở cả nước đã về tay nhân dân.
  2. Đánh đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến:
    • Lật đổ chính quyền tay sai của Nhật.
    • Chấm dứt chế độ phong kiến tồn tại hơn 1000 năm.
  3. Thành lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á:
    • Lần đầu tiên nhân dân Việt Nam làm chủ vận mệnh đất nước.

👉 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại:Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.

  • Trước hàng chục vạn người dân thủ đô và đại diện các tầng lớp nhân dân.
  • Bản Tuyên ngôn tuyên bố:

    “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.”