Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

a, Vấn đề mà tổng thống Ấn Độ Nê-ru nêu ra là văn hóa và những biểu hiện ở con người.
Có thể đặt tên: Con người văn hóa
a) Vấn đề mà J. Nê-ru đưa ra để nghị luận là gì? Vấn đề mà J. Nê-ru đưa ra để nghị luận trong đoạn văn này là "Sự khôn ngoan thực sự là gì?". Ông đặt câu hỏi về sự phát triển trí tuệ và văn hóa của con người, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ giữa kiến thức, trí thức với sự khôn ngoan thật sự. Ông cũng đề cập đến việc liệu con người có thể kết hợp sự tiến bộ của khoa học và tri thức với sự khôn ngoan hay không, và làm thế nào để có được một sự khôn ngoan đúng đắn trong thế giới hiện đại. Tên cho văn bản: "Sự Khôn Ngoan Thật Sự" Tên này phản ánh đúng nội dung mà tác giả đang bàn luận, tập trung vào việc định nghĩa sự khôn ngoan thật sự và vai trò của nó trong sự phát triển của con người, đặc biệt trong bối cảnh của khoa học và tri thức hiện đại.

Cách diễn đạt trong văn bản trên có gì đặc sắc? Văn bản trên sử dụng một cách diễn đạt khá đặc sắc, có thể thấy rõ một số yếu tố nổi bật: Lối tư duy mở rộng và vấn đáp: Tác giả sử dụng lối tư duy mở rộng qua các câu hỏi liên tiếp để dẫn dắt người đọc suy nghĩ về khái niệm văn hoá và khôn ngoan. Những câu hỏi như “Văn hoá có phải là sự phát triển nội tại bên trong một con người hay không?” hay “Văn hoá có phải là khả năng hiểu người khác không?” khiến người đọc không chỉ tiếp thu thông tin mà còn tự hỏi, tự tư duy về những khái niệm này. Điều này tạo ra một không gian mở cho sự phản biện và tìm kiếm câu trả lời, thay vì đưa ra một tuyên bố cứng nhắc. Sử dụng lặp lại để nhấn mạnh ý tưởng: Cách diễn đạt lặp đi lặp lại như “Đó có phải là… không?” và “Tôi cho là…”, “Nhất định là phải” giúp nhấn mạnh các khái niệm cơ bản về văn hoá, khôn ngoan và trí tuệ. Lặp lại này không chỉ làm rõ quan điểm của tác giả mà còn thể hiện sự chắc chắn và mạnh mẽ trong lập luận. Cách tiếp cận lý thuyết nhưng thực tế: Tác giả không chỉ nói về khái niệm văn hoá và trí tuệ một cách lý thuyết mà còn liên kết những khái niệm này với thực tế. Việc nói về "khả năng hiểu người khác", "không đồng ý nhưng vẫn hiểu" hoặc "sự cự tuyệt mù quáng" là cách tác giả làm cho vấn đề trở nên gần gũi và có tính ứng dụng trong đời sống. Lối viết mang tính triết lý: Đoạn văn sử dụng những suy tư sâu sắc và những câu hỏi mở để khai thác bản chất của tri thức và sự khôn ngoan. Khi tác giả đặt ra câu hỏi về việc liệu chúng ta có thể kết hợp khoa học và tri thức với sự khôn ngoan hay không, đó không chỉ là một câu hỏi về xã hội mà còn là một câu hỏi mang tính triết học về giá trị và mục đích của sự tiến bộ con người. Sử dụng dẫn chứng nổi tiếng: Tác giả đưa ra một câu nói của nhà thơ Hi Lạp Gi. Nê-ru để minh họa cho quan điểm của mình về sự khôn ngoan. Việc trích dẫn một câu nói nổi tiếng giúp làm sáng tỏ và củng cố luận điểm của tác giả, đồng thời kết nối vấn đề với những suy nghĩ của các triết gia, văn hoá nhân loại. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc: Một số cụm từ như "vượt lên sợ hãi, vượt lên hận thù, sống tự do, thở hít khí trời và biết chờ đợi" sử dụng ngôn từ rất hình ảnh và cảm xúc, tạo ra một cảm giác sống động và đầy lạc quan về sự khôn ngoan và văn hoá. Điều này không chỉ khiến người đọc hiểu mà còn khơi dậy cảm xúc, giúp họ liên hệ với văn hoá và sự khôn ngoan theo cách sâu sắc hơn. Tóm lại: Cách diễn đạt trong văn bản này đặc sắc bởi sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, giữa câu hỏi mở và trả lời gợi mở, giữa dẫn chứng triết lý và ngôn từ giàu hình ảnh. Tất cả những yếu tố này làm cho văn bản không chỉ là một bài nghị luận thông thường mà còn là một cuộc đối thoại về những vấn đề quan trọng liên quan đến con người và xã hội.

Câu 1:Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê… Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).
Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ, quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).
Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820
Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).
Tác phẩm bằng chữ Hán:
Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
- Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
- Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Tác phẩm bằng chữ Nôm
- Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc.Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
- Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
- Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Còn lại thì mình chịu=)

Tk:
Có những thứ giết chết con người nhanh hơn cả dịch bệnh đó là sự kỳ thị. Trong thời điểm dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp hiện nay, với sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, khuyến cáo từ Bộ Y Tế đã đưa ra các giải pháp nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm Covid nhưng vẫn còn một bộ phận người dân có thái độ kỳ thị những người trở về từ vùng dịch hoặc người nhiễm bệnh. Tại sao có sự xa lánh, kỳ thị này? Bản chất của kỳ thị thường gắn liền với những căn bệnh nguy hiểm, khó chữa do vậy người sợ tránh xa, hoặc do sự thiếu hiểu biết hoặc không đầy đủ về Covid-19. Để rồi họ sẵn sàng buông những lời lẽ thô tục, những hành động thiếu đạo đức làm tổn hại đến những người vô tội. Và rồi, người chịu nhiều thiệt thòi nhất lại là những người cần tình yêu thương nhất. Thay vì kỳ thị chúng ta nên cần hiểu rõ vấn đề, luôn tin tưởng vào các cơ quan chức năng, đội ngũ bác sĩ của chúng ta. Đặc biệt, dành tình cảm, tình yêu thương và sự quan tâm đến những người nhiễm và tiếp xúc với người bệnh để họ có thể an tâm điều trị. Chỉ có vậy, nước ta mới có thể đẩy lùi và chữa trị dứt điểm những trường hợp còn lại. Là những người trẻ - chúng ta cần nhận thức đúng đắn về vấn đề đồng thời tuyên truyền cho mọi người biết và hiểu về nó, đẩy lùi những hành động xấu, dịch bệnh xấu khỏi Việt Nam và Thế giới.

Hai đoạn văn giống nhau nhưng có cách dùng từ khác nhau:
Chúng ta hẳn ai cũng nghe nói về | Chúng ta không thể nhắc tới |
… trong lúc nhàn rỗi rãi… | Trong những thời khắc hiếm hoi được thanh nhàn bất đắc dĩ |
Bác vốn chẳng thích làm thơ… | Thơ không phải mục đích cao nhất |
-… vẻ đẹp lung linh | Nhưng vần thơ vang lên ... nhà tù |
Vẻ đẹp ấy thể hiện rõ trong từng bài thơ | … là những thi phẩm tiêu biểu cho tinh thần đó |
- Đoạn 1 có nhiều lỗi như cách dùng từ chưa hợp lí, sử dụng lối văn phong ngôn ngữ sinh hoạt: hẳn ai cũng nghe nói, trong lúc nhàn rỗi
- Đoạn 2: nhiều ưu điểm, từ ngữ phù hợp với văn nghị luận hơn
- Sửa lỗi dùng từ:
+ Nhàn rỗi → thư thái
+ Chẳng thích làm thơ → bác chưa bao giờ cho mình là một nhà thơ
+ Vẻ đẹp lung linh → vẻ đẹp cao quý
+ Vượt thoát qua chấn song, qua xiềng xích, qua dây trói của nhà tù → ở ngoài lao
Trong xã hội hiện đại, trí tuệ nhân tạo (AI) đang dần trở thành một phần tất yếu của đời sống con người. Sự xuất hiện của AI đã mang lại những bước tiến vượt bậc trong khoa học, kinh tế, giáo dục, y tế và rất nhiều lĩnh vực khác. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng: “Nếu không sử dụng AI đúng cách, thế hệ trẻ không những không đồng hành với bước tiến của nhân loại mà còn đi lùi trong việc tạo ra giá trị cho bản thân.” Đây là một nhận định sâu sắc, đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc sử dụng AI một cách thông minh và đúng đắn.
Trước hết, cần khẳng định AI mang lại nhiều lợi thế to lớn. Công nghệ này giúp con người tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả lao động và mở rộng khả năng sáng tạo. Chẳng hạn, trong học tập, AI hỗ trợ tìm kiếm thông tin nhanh chóng, dịch thuật, giải bài tập, hay thậm chí gợi ý ý tưởng sáng tạo cho văn bản và nghệ thuật. Trong công việc, AI giúp con người xử lý dữ liệu khổng lồ, đưa ra dự đoán chính xác, từ đó hỗ trợ đưa ra quyết định đúng đắn. Rõ ràng, nếu biết cách khai thác, AI sẽ là “người bạn đồng hành” đắc lực giúp mỗi cá nhân phát triển giá trị bản thân, vươn tới tri thức và thành công.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề cũng rất đáng lo ngại. Việc lạm dụng AI một cách thụ động khiến con người dần mất khả năng tư duy độc lập, sáng tạo và giảm sút năng lực tự học. Nếu học sinh chỉ dựa vào AI để làm bài tập thay vì tự suy nghĩ, thì kiến thức sẽ hổng, kỹ năng tư duy logic bị mai một. Người trẻ có thể trở nên phụ thuộc vào máy móc, mất đi bản lĩnh, ý chí và khả năng tự khẳng định. Như vậy, thay vì tiến bộ cùng thời đại, họ lại tụt lùi, tự đánh mất cơ hội tạo ra giá trị cho chính mình.
Để AI thực sự trở thành công cụ phát triển bản thân, mỗi người trẻ cần có thái độ chủ động và tỉnh táo. Trước hết, phải coi AI như một phương tiện hỗ trợ, không phải sự thay thế hoàn toàn. Hãy dùng AI để mở rộng kiến thức, tham khảo ý tưởng, nhưng vẫn giữ vai trò quyết định trong việc chọn lọc, phân tích và sáng tạo. Thứ hai, cần rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ an toàn, có trách nhiệm, không để thông tin sai lệch hoặc sự tiện lợi của máy móc chi phối. Cuối cùng, phải kết hợp học tập truyền thống với công nghệ, nuôi dưỡng tư duy phản biện, óc sáng tạo và tinh thần tự học – những giá trị cốt lõi mà không loại máy móc nào có thể thay thế.
Tóm lại, trí tuệ nhân tạo là xu thế tất yếu và là lợi thế của nhân loại trong kỷ nguyên số. Nhưng việc sử dụng AI đúng cách mới chính là chìa khóa giúp thế hệ trẻ phát triển toàn diện, tạo ra giá trị đích thực cho bản thân. Mỗi người cần nhận thức rằng AI chỉ phát huy sức mạnh khi được đặt dưới sự kiểm soát của trí tuệ và bản lĩnh con người. Biết tận dụng AI như một công cụ, chứ không phải nương tựa một cách mù quáng, chúng ta mới có thể vừa đồng hành cùng nhân loại, vừa khẳng định được giá trị riêng trong xã hội hiện đại.
mình dùng AI