Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
phần dác vì dác có các chất tế bào chết vách dày khi làm nhà ,làm trụ,làm tà vẹt thì sẽ rất chắc
mk nhanh nhất
k cho mk nhé
Soạn bài: Lòng yêu nước (I-li-a Ê-ren-bua)
Câu 1: Đại ý của bài văn:
Tác giả lý giải lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất, đồng thời khẳng định: lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất trong những thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.
Câu 2:
a, Câu mở đầu đoạn: "Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… có hơi rượu mạnh."
Câu kết đoạn: " Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc"
b, Trình tự lập luận:
- Mở đầu tác giả nêu nhận định giản dị mang tính quy luật lòng yêu nước bắt nguồn từ những điều nhỏ bé, giản dị thường ngày.
+ Lòng yêu nước bắt nguồn từ những cái nhỏ tới cái lớn
- Tác giả đặt "lòng yêu nước" trong thử thách những cuộc chiến tranh vệ quốc để mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ đẹp thanh tú của quê hương:
+ Người Vùng Bắc
+ Người xứ U-crai-na
+ Người xứ Gru-di-ca
+ Người Matxcova
- Kết lại tác giả tổng kết rằng tình yêu nhà, yêu quê hương trở thành tình yêu Tổ quốc.
Câu 3:
Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình:
- Người vùng Bắc:
Nghĩ tới cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miền Xu- cô- nô, … những đêm tháng sáu sáng hồng.
- Người U-crai-na:
Nhớ bóng thùy dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vắng.
→ Nhớ những cảnh vật, những điều nhỏ bé quen thuộc trong cảnh sống yên bình.
- Người xứ Gru-di-a:
Ca tụng khí trời của núi cao, nỗi vui bất chợt, những lời thân ái giản dị
- Người ở thành Le-nin-grat:
Nhớ dòng sông Ne-va rộng và đường bệ, nhớ những tượng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, nhớ phố phường
→ Nỗi nhớ, niềm tự hào về ngôn ngữ, vẻ đẹp, sự oai hùng của quê hương xứ sở.
- Người Mat-cơ-va:
Nỗi nhớ gắn với vẻ đẹp truyền thống, niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
=> Vẻ đẹp riêng của từng vùng miền, mỗi vùng gắn với đặc trưng và vẻ đẹp riêng biệt của vùng đó.
Bài viết tạo nên tổng thể hài hòa đa dạng về tình yêu của người dân Xô viết dành cho mảnh đất nơi họ sinh sống.
Câu 4: Chân lý phổ biến, sâu sắc về lòng yêu nước:
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc; và không thể sống khi mất nước.
II. LUYỆN TẬP
Nếu cần nói về vẻ đẹp quê hương mình:
- Giới thiệu về vị trí địa lý, đặc điểm về dân số, diện tích.
- Nêu truyền thống lịch sử, văn hóa.
- Điểm nổi bật về phong cảnh, con người.
- Thế mạnh trong công cuộc phát triển đất nước.
I. VỀ THỂ LOẠI
(Xem trong bài Con Rồng, cháu Tiên).II. KIẾN THỨC CƠ BẢN1. Truyền thuyết Thánh Gióng có nhiều nhân vật (bố mẹ, dân làng, vua, sứ giả...) nhưng nhân vật chính là Thánh Gióng. Nhân vật này được xây dựng bằng rất nhiều chi tiết tưởng tượng có tính chất kì ảo: sinh ra khác thường (bà mẹ chỉ ướm vào vết chân lạ mà thụ thai); thụ thai đến mười hai tháng; ba tuổi mà chẳng biết đi đứng, nói cười; khi giặc đến thì bỗng dưng biết nói và lớn nhanh như thổi, sức khoẻ vô địch; đánh tan giặc lại bay về trời.2. Các chi tiết đặc biệt trong truyện thể hiện rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất. tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói đòi đi đánh giặc. Chi tiết này chứng tỏ nhân dân ta luôn có ý thức chống giặc ngoại xâm. Khi có giặc, từ người già đến trẻ con đều sẵn sàng đánh giặc cứu nước. Đây là một chi tiết thần kì: chưa hề biết nói, biết cười, ngay lần nói đầu tiên, chú bé đã nói rất rõ ràng về một việc hệ trọng của đất nước. Thứ hai, Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh giặc.Gióng không đòi đồ chơi như những đứa trẻ khác mà đòi vũ khí, những vật dụng để đánh giặc. Đây cũng là một chi tiết thần kì. Gióng sinh ra đã là một anh hùng và điều quan tâm duy nhất của vị anh hùng đó là đánh giặc. Thứ ba, bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé. Gióng là đứa con của nhân dân, được nhân dân nuôi nấng, dạy dỗ. Sức mạnh của Gióng là sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của tinh thần đồng sức, đồng lòng. Thứ tư, Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ. Đây cũng là chi tiết thể hiện sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của dân tộc. Khi hoà bình là những người lao động rất bình thường, nhưng khi chiến tranh xảy ra, sự đoàn kết đã hoá thành sức mạnh bão tố, phi thường, vùi chôn quân giặc. Thứ năm, Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc. Gậy sắt là vũ khí của người anh hùng. Nhưng khi cần thì cả cỏ cây cũng biến thành vũ khí.. Thứ sáu, Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng lên trời. Gióng cũng như nhân dân hay chính là nhân dân, đánh giặc vì lòng yêu nước, căm thù giặc, sẵn sàng hi sinh thân mình mà không đòi hỏi được khen thưởng hay ban cho danh lợi.3. Ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng: Thánh Gióng là hình tượng tiêu biểu của người anh hùng chống giặc ngoại xâm.Gióng được sinh ra từ nhân dân, do nhân dân nuôi dưỡng. Gióng đã chiến đấu bằng tất cả tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của nhân dân. Sức mạnh của Gióng không chỉ tượng trưng cho sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân, đó còn là sức mạnh của sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên, bằng cả vũ khí thô sơ và hiện đại.Từ truyền thống đánh giặc cứu nước, nhân dân ta đã thần thánh hoá những vị anh hùng trở thành những nhân vật huyền thoại, tượng trưng cho lòng yêu nước, sức mạnh quật khởi của dân tộc.4*. Sự thật lịch sử được phản ánh trong truyện Thánh Gióng là thời đại Hùng Vương. Trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã khá phát triển, người dân Văn Lang đã tạo nên cả một nền văn minh rực rỡ, đồng thời cũng luôn luôn phải chống giặc ngoại xâm phương Bắc để bảo vệ đất nước. Bên cạnh việc cấy trồng lúa nước, nhân dân thời bấy giờ đã có ý thức chế tạo vũ khí chống giặc từ chất liệu kim loại (bằng sắt). Truyền thuyết cũng phản ánh: trong công cuộc chống ngoại xâm, từ xa xưa, chúng ta đã có truyền thống huy động sức mạnh của cả cộng đồng, dùng tất cả các phương tiện để đánh giặc.III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt:Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn, có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Đã lên ba tuổi, cậu chẳng biết nói cười.Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Sau khi ăn hết "bảy nong cơm, ba nong cà" do bà con gom góp mang đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm lập hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.2. Lời kể:Khi kể cần chú ý: câu chuyện hầu hết được tái hiện lại qua lời người kể chuyện. Tuy nhiên, lời người kể qua các giai đoạn, các tình tiết cũng có giọng điệu khác nhau.- Đoạn mở đầu kể chậm, rõ (lời dẫn chuyện).- Đoạn tiếp theo (từ "Bấy giờ có giặc Ân" đến "những vật chú bé dặn"): giọng kể nhanh thể hiện tình hình đất nước nguy cấp.- Đoạn thứ ba ("Càng lạ hơn nữa" đến "mong chú giết giặc, cứu nước"): kể bằng giọng ngạc nhiên, về việc chú bé lớn nhanh kì lạ.- Đoạn kể Thánh Gióng đánh giặc, sau đó bay thẳng lên trời: giọng kể nhanh, thể hiện niềm cảm phục.- Đoạn cuối kể bằng lời dẫn chuyện, giọng trầm (chú ý ngữ điệu lặp cấu trúc: "Người ta kể rằng" và "Người ta còn nói" thể hiện niềm tự hào).3. Nhân vật Thánh Gióng gắn với nhiều hình ảnh đẹp và để lại nhiều ấn tượng. Trong đó có lẽ hình ảnh Gióng “bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ…” để đòi đi đánh giặc và hình ảnh Gióng oai hùng khi xông trận có thể xem là những hình ảnh đẹp và ấn tượng nhất của nhân vật này.4. Hội thi thể thao của các nhà trường hiện nay sở dĩ được mang tên là Hội khoẻ Phù Đổng là vì những người tổ chức mong muốn thế hệ trẻ hôm nay phát huy được sức mạnh và tinh thần của Thánh Gióng năm xưa.1- Lớp vỏ sinh vật:
- ở mọi nơi của Trái đất: bề mặt, đất, đá, đại dương, không khí ...=> đều có lớp vỏ mới liên tục gọi là lớp sinh vật (sinh vật quyển)
2- Các nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng đến phân bố thực, động vật:
a-Với thực vật:
Khí hậu ảnh hưởng rõ nét nhất, mỗi kiểu khí hậu có lớp sinh vật khác nhau:
- ở xích đạo nóng ẩm quanh năm-> có rừng rậm, nhiều tầng, lắm loài ...
- ở hoang mạc nóng khô -> có rất ít cây, chủ yếu là bụi gai ...
- ở gần cực-> lạnh, ít mưa => chỉ có rêu, địa y
+Địa hình ảnh hưởng: - Chân núi có rừng lá rộng
- Núi cao có cây lá kim
+Đất: - Phù sa có lúa, rau ...
- Feralit có cây lấy gỗ ...
b) Đối với động vật
- Động vật ít chịu ảnh hưởng của khí hậu hơn thực vật(vì động vật có thể di chuyển được hoặc tự thay đổi để thích nghi với môi trường)
- Sự phân bố của động vật có ảnh hưởng lớn của thực vật
c) Mối quan hệ giữa thực vật và động vật
- Sự phân bố các loài thực vật ảnh hưởng sâu sắc tới sự phân bố các loài động vật: Thực vật phong phú thì động vật cũng phong phú và ngược lại.
bạn tham khảo những ý hay trong bài để bổ sung vào bài văn của bn nhé
Tả quang cảnh buổi lễ chào cờ (18 mẫu) - Tập làm văn lớp 5
Mỗi chúng ta không chỉ gắn kết bản thân trong quan hệ với gia đình mà còn gắn kết với quan hệ nhà trường, với thầy cô, bạn bè. Mái trường là nơi lưu giữ bao kỉ niệm khi ta còn ngồi trên ghế nhà trường. Buổi lễ chào cờ mỗi sáng thứ hai đầu tiên như trở thành một điều quen thuộc nhưng với em, nó thật đặc biệt.
Sáng thứ hai là buổi học đầu tiên của một tuần mới. Ai ai cũng đến trường với một niềm vui, với sự phấn khởi, với một năng lượng tràn trề. Sáng thứ hai các bạn học sinh ăn mặc thật gọn gàng, trang phục đúng quy định, đội mũ trắng đến trường...
Trước khi giờ chào cờ diễn ra, sẽ có hồi trống báo hiệu để tất cả các học sinh xuống xé hàng. Các bạn học sinh từ các lớp ùa ra như đàn chim vỡ tổ, nhanh chóng xếp thành từng hàng. Sau khi đã ổn định, cô hiệu trường lên bắt đầu buổi lễ chào cờ. Giọng cô đầy uy nghiêm: “ Nghiêm! Chào cờ! Chào!”. Tất cả các bạn học sinh bỏ mũ và đưa tay chào. Đồng thời là hát bài “ Quốc ca”. Cả trường cùng hát khiến trong lòng em bồi hồi, lòng em tự hào hơn bao giờ hết về đất nước, về Tổ quốc yêu dấu. Sau đó,taats cả được bỏ tay xuống và ngồi xuống ghế tại vị trí của mình.
Đầu tiên là lớp trực tuần lên nhận xét sơ qua về tình hình chung của trường trong tuần vừa qua. Lớp trực tuần cũng đưa ra những ưu điểm, khuyết điểm về học tập và về nề nếp của các lớp trong trường, sau đó xếp thứ tự.
Tiếp đó, cô hiệu trưởng lên nhận xét về hoạt động của trường trong tuần cũ. Cô nhận xét rất chi tiết, cụ thể. Cô thẳng thắn phê phán những cá nhân và những tập thể mắc lỗi. Có những lỗi nghiêm trọng như sử dụng tài liệu trong giờ kiểm tra, học sinh cư xử không đúng phép với các thầy cô giáo..., cô đều nói rất rõ. Cô cũng tuyên dương những cá nhân và những tập thể có tiện bộ, đạt được nhiều thành tích. Đồng thời, cô chỉ ra kế hoạch của tập tiếp đó. Cô nói rõ hướng để khắc phục những khuyết điểm và cách phát huy những ưu điểm nữa, tất cả để tạo ra môi trường học tập tốt !
Buổi lễ chào cờ diễn ra thường xuyên trong đời học sinh nên có thể chúng ra chỉ coi đó là một điều bình thường. Nhưng hãy nhớ rằng, khi không còn ngồi trên ghế nhà trường, thì cũng không con một buổi lễ chào cờ nào nữa....
Dựa vào đặc điểm của vỏ quả có thể chia các quả thành hai nhóm chính là quả khô và quả thịt
Qủa khô khỉ chín thì vỏ khô, cứngg và mỏng. Có hai loại quả khô: quả khô nẻ và quả khô không nẻ.
Quả thịt khi chín thì mềm, vỏ dày chứa đầy thịt quả. Quả gồm toàn thịt gợi là quả mọng, quả cỏ hạch cứng bọc lấy hạt gọi là quả hạch.
Bài 32: Các loại quả
1. Căn cứ vào đặc điểm nào để phân chia các loại quả? (trang 63 VBT Sinh học 6)
Quan sát tất cả các loại quả đã mang đến lớp hoặc các loại quả có trong SGk:
- Em có thể phân chia các loại quả thành 6 loại
- Hãy viết những đặc điểm em đã dùng để phân chia chúng:
Trả lời:
- Màu sắc
- Kích thước
- Số lượng hạt
- Quả ăn được không
- Quả khô hay mọng
- Quả nhiều hay ít hạt