Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nghệ thuật XD nhân vật của Nguyễn Du hết sức đa dạng và tài năng:
+ Khắc hoạ nhân vật qua bút pháp ước lệ miêu tả ngoại hình ( Chị em Thúy Kiều).
+ Khắc hoạ nhân vạt qua ngôn ngữ độc thoại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng( Kièu ở lầu Ngưng Bích).
+ Khắc hoa nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại ( Thuý Kiều báo ân, báo oán).
NĐ Chiểu trong đoạn trích LVT cứu KNN: miêu tả n/v qua lời nói, đặc biệt qua hành động và cử chỉ (gần với truyện dân gian)
Phần 1. Gặp gỡ và đính ước
- Chị em Thúy Kiều đi chơi xuân, Kiều gặp Kim Trọng ( bạn Vương Quan ) quyến luyến.
- Kim Trọng tìm cách dọn đến ở gần nhà, bắt được cành thoa rơi, trò chuyện cùng Thuý Kiều, Kiều – Kim ước hẹn nguyện thề.
Phần 2. Gia biến và lưu lạc
- Kim về hộ tang chú, gia đình Kiều gặp nạn. Kiều bán mình chuộc cha.
- Gặp Thúc Sinh, Chuộc khỏi lầu xanh. Bị vợ cả Hoạn Thư đánh ghen, bắt Kiều về hành hạ trước mặt Thúc Sinh.
- Kiều xin ra ở Quan Âm Các, Thúc Sinh đến thăm, bị Hoạn Thư bắt, Kiều sợ bỏ trốn ẩn náu ở chùa Giác Duyên. Kiều rơi vào tay Bạc Bà, rồi lại rơi vào lầu xanh lần hai.
- Kiều gặp Từ Hải, được chuộc khỏi lầu xanh. Kiều báo ân báo oán. Bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết. Kiều bị gán cho viên Thổ quan. Kiều nhảy xuống dòng Tiền Đường tự vẫn. Sư bà Giác Duyên cứu thoát về tu ở chùa.
Phần 3. Đoàn tụ
- Sau khi hộ tang trở về được gả Thúy Vân, Kim vẫn khôn nguôi nhớ Kiều, tìm kiếm Kiều. Kim lập đàn lễ, gặp Kiều, gia đình sum họp. Kiều không muốn nối lại duyên xưa. Chỉ coi nhau là bạn.
Mỗi tác phẩm văn chương xuất hiện đều mang theo những ẩn ngữ. Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du có nhiều ẩn ngữ cần giải mã; những tranh luận về tu từ, về sự biến, về chữ nghĩa vẫn còn đó, dường như thiếu một lam bản để tỏ tường. Có lẽ vào thời đại của Nguyễn Du, sinh hoạt văn chương chỉ là một phần trong việc diễn tập dùi mài kinh sử chữ nghĩa, do đó những tục lệ của đời sau như bản quyền, tác quyền không coi là quan trọng, như trong Truyện Kiều, tác giả chỉ viết:
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh
Và không cần gióng lên là phóng tác ở nguồn nào. Điều đó thật tự nhiên trong một nền văn hoá cổ, chưa để ý đến những việc thương mại, tiếp thị, xuất bản, tác quyền v.v…Ở trong một nền văn hoá lấy thơ văn là nền tảng, thi cử là cứu cánh, dường như kiến thức phổ cập, nên việc Nguyễn Du không cần phải giáo đầu, việc cứ để những người khác làm:
Chẳng hạn trong tổng thuyết của vua Minh Mệnh viết: Thánh Thán bất phùng, hàn yên tản mạn để nhắc đến Thánh Thán bình phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân; tổng từ của vua Tự Đức viết: phần lô nhàn độc Thanh Tâm biên, thị biên bắc nhân Thánh Thán trước, dịch âm ngã quốc Nguyễn Tiên Điền đều để dẫn truyện Kim Vân Kiều nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân, và Thánh Thán luận bàn, nay Nguyễn Du diễn ra Quốc âm.
Thanh Tâm Tài Nhân viết ra tiểu thuyết vào thế kỷ 17. thời kỳ sáng tác tiểu thuyết được xem như phồn vinh cực thịnh, Thánh Thán (Kim Nhân Thụy) nổi tiếng là tay bình giá sâu sắc, cho nên ở thời đại Nguyễn Du, truyện Kiều hẳn giới đọc sách ai cũng biết, việc diễn ra Quốc âm làm theo thể truyện thơ riêng của văn chương Việt nam là thể thơ lục bát đã phổ biến rộng khắp, từ nơi cung đình, đến chốn văn gia, lại đi sâu vào đại chúng, như những bài tựa tác phẩm Quốc âm này ở ngay thế kỷ 19 ghi nhận. Tuy nhiên điều đáng chú ý là tác phẩm Quốc âm càng nổi tiếng, tên tuổi Nguyễn Du đã lừng danh trong văn học thế giới, song tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân dường như đi vào quên lãng. Chẳng hạn, lấy một vài sách tiêu biểu, như Trung Quốc Tiểu Thuyết Sử Lược của Lỗ Tấn, mấy chương viết về tiểu thuyết thời Minh không hề nhắc đến tác giả hay tác phẩm Kim Vân Kiều truyện này, bộ Trung Quốc Văn học sử thông lãm do nhiều học giả hiện đại trong phần về tiểu thuyết thời Minh có nói đến Kim Bình Mai, đến Tỉnh thế nhân duyên truyện còn nhiều tiểu thuyết khác xem như nghệ thuật tầm thường nên không nói đến, ngay sách viết bằng Anh ngữ như An Introduction to Chinese Literature của Liu Wu-Chi (Liễu Vô Kỵ) để giới thiệu ra thế giới cũng không đá động đến tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân.
Nay Kim Vân Kiều truyện được dịch giả Đàm Quang Hưng hoàn tất việc chuyển ngữ, đem ra xuất bản thật hữu ích cho người đọc cũng như cho người phê bình.
Sự khác biệt giữa tiểu thuyết và thơ không chỉ ở thể loại, ngày nay với sự phát triển của thi pháp/sáng tạo học về văn xuôi cũng như về thơ xây dựng trên cơ sở những khoa ký hiệu học,văn phong học, ngữ nghĩa học có thể giúp cho việc đối chiếu tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân với truyện thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du về nhiều mặt.
Trong Thi pháp học cổ điển phương đông, như Vân đài loại ngữ, quyển 5 Văn nghệ loại, Quế đường Lê Quí Đôn ở thế kỷ 18 đã nói đến một trong hai nguyên tắc nhị phế/phải bỏ là: tuy dục phế từ thượng ý nhi điển lệ bất đắc di nghĩa là bỏ lời lấy ý nhưng không được bỏ cái đẹp và cũng nói đến tình, cảnh, sự trong phép làm thơ, ba điều đó có thể áp dụng vào việc đọc truyện thơ Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Bàn về Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, người cùng thời với cụ Nguyễn, khi phân chia sách vở văn chương phong phú như rừng làm những loại như hiến chương, kinh sử, thi văn, truyện ký; như vậy Đoạn trường tân thanh có thể kể vào loại truyện ký vì là một thực lục. Song là một thực lục bằng thơ, nghĩa là đọc dưới nguyên tắc thi pháp của thơ, khác với đọc tác phẩm văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân. Đứng từ quan điểm thi pháp hiện đại, tôi muốn dẫn một cái nhìn của người đời nay như Marcelin Pleynet khi hỏi: Thơ phải có mục đích như thế nào? và trả lời là: thơ phải có mục đích như một truyện kể song luôn luôn khác với hoạt động thực tiễn, có thể là tiêu chuẩn để đối chiếu việc Nguyễn Du viết về hành trạng/cuộc đời Kiều bằng thơ khác với Thanh Tâm Tài Nhân thuyết thoại qua văn xuôi.
Tản văn có thi pháp của tản văn/poétique de la prose cho nên không thể so sánh nguyên tắc, nghệ thuật, tình tiết, câu chuyện Kiều trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân với truyện ký bằng thơ của Nguyễn Du. Cảm nghĩ về mỗi tác phẩm là thẩm quyền của người đọc.
Với quyển sách Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân trước mặt, người ta có thể giải toả những thắc mắc, chẳng hạn trong tác phẩm thơ của Nguyễn Du, sự biến xẩy đến cho gia đình Vương ông tóm lược trong hai câu:
Hỏi ra sau mới biết rằng
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ
Xem trong hồi 4 tiểu thuyết kể qua tản văn rõ ràng là:
Kiều lên tiếng hỏi: “Cha Mẹ làm gì ở bên ngoại mà bây giờ mới về ?”. Vương ông đáp: “Vì cha gặp chuyện chẳng lành. Dượng con cho hai khách buôn tơ thuê phòng ở trong nhà. Không biết họ buôn tơ của ai mà khi họ đem tơ ra chợ bán thì bị một người tới nhận là tơ của mình bị mất cắp, rồi đi cáo quan. Hai khách buôn khai với quan rằng họ buôn tơ của dượng con, rồi họ vu oan cho dượng con tội oa trữ của trộm cắp. Dượng con bị bắt. Cha có ngồi uống rượu với hai khách ấy mấy bữa nên chỉ sợ là họ biết cha với dượng con là anh em cột chèo, rồi cũng vu oan cho cha tội oa trữ của trộm cắp!”.
Trong khi Vương ông đang nói với Kiều, thì có một sai nha chừng bảy tám tên, xông thẳng vào nhà, chẳng nói chẳng rằng, dùng dây trói Vương ông với Quan, treo ngược lên xà nhà. Tiếng hò lục soát tìm tang vật lừng vang khắp xóm. (Xem: bản dịch sách này).
Vương Thuý Vân là một tác nhân trong truyện Kiều, vì nếu không có cô em trong gia đình Vương ông, thì không thể có tái hồi Kim Trọng, có happy endingtrong tiểu thuyết. Dường như trong phần nói về tiểu thuyết thế thái nhân tình thời nhà Minh, nói đến trai tài gái sắc gặp nhau rồi yêu nhau, trải qua bao gian khổ lại đoàn viên (có vẻ “cải lương”) học giả Phạm Ninh như ám chỉ những tiểu thuyết như Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tầm thường về nghệ thuật [trong Trung quốc văn học sử thông lãm nói đến ở trên]. Song quả thực trong tiểu thuyết, thuyết thoại là bộ phận thiết yếu, tác giả tả một Thuý Vân năng hoạt linh động:
Vân tươi đẹp óng ả, mềm mại, hiền lành, ít nói.
Cả ba chị em cùng giỏi văn thơ.
Kiều rất thích âm nhạc, say mê hồ cầm. Vân thường khuyên chị: “Âm nhạc không phải là việc của con gái, người ngoài nghe chuyện chị mê âm nhạc, họ sẽ cười cho!
Đoạn tác giả nói về chuyện Kim Trọng gặp gỡ hai nàng:
Kim thấy Kiều mày nhỏ mà dài, ánh mắt lấp lánh như liếc mắt đưa tình, dung như trăng thu, sắc tựa hoa đào, khoan thai văn nhã, chim sa cá lặn! Còn Vân thì tinh thần phẳng lặng, dung mạo đoan trang, vượt lên thường phàm, phong thái cá biệt. Bị sắc đẹp đoạt hồn, Kim tự nhủ: Cái tương tư này sẽ hại ta đây! Rồi lại tự thề: Nếu ta không xin cưới được hai nàng này thì suốt đời, ta sẽ không lấy vợ!
Còn về phía hai nàng: Tới nhà thì trời vừa tối. Kim lên phòng mình ở trên lầu. Lát sau, thấy Vân đẩy cửa vào chơi, Kiều nói: “Anh chàng nho sinh họ Kim ấy có cái thú thật ngược đòi! Làm sao hiểu được cái thú thích đi thăm mộ nàng Lưu Đạm Tiên của ảnh?” Vân đáp: “Em nghĩ không phải là ảnh thích đi thăm mộ Đạm Tiên đâu, mà là ảnh thích đi xem mặt hai chị em mình!”.(hồi 1)
Đến việc Thuý Kiều nhờ em nối hộ duyên mình:
Vân hỏi: “Đang nói chuyện với em, sao chị lại bỏ ngang? Nhìn mặt chị, em thấy chị ngậm lo chứa hận, tựa như ngoài cái ưu sầu khổ não do việc bán mình, chị còn có muôn vàn tâm sự khác. Đúng thế không?” Kiều đáp: “Đúng thế! Chị vẫn muốn nói với em, nhưng khó bề hé răng. Tuy nhiên, nếu không nói thì lại e phụ lòng một người thuộc giống chung tình! Vân hỏi: “có phải người thuộc giống chung tình của chị là anh Kim Thiên Lý không? Mới thoáng nhìn thấy ảnh có một lần mà sao chị đã biết là ảnh chung tình?” …
Vân hỏi:”Chị lạy em để làm gì?” Kiều đáp:”Chị lạy em để nhờ em một việc! Chị chưa đền đáp được ân tình của anh Kim, nên chị muốn tỏ bày cùng em tất cả nỗi lòng của chị, rồi nhờ em thay chị mà đền đáp ân tình ấy cho ảnh. Chị dầu thịt nát xương mòn, ngậm cười chin suối, vẫn còn thơm lây!” (hồi 4)
Đến việc Thuý Vân thay chị lấy Kim Trọng:
Một hôm rảnh việc, Kim bảo phu nhân Thuý Vân thuật lại cho mình nghe chuyện cũ, khi gia đình bị nạn vu cáo. Thuật xong, phu nhân nói:”Liên tiếp mấy đêm nay, thiếp mộng thấy chị Kiều! Vì thế thiếp nghĩ có thể nơi đây sẽ giúp ta tìm ra tin tức chị Kiều!” Đột nhiên Kim tỉnh ngộ mà nói:”Nếu phu nhân không nói thì ta bỏ lỡ mất cơ hộ! Lâm Truy với Lâm Thanh chỉ khác nhau có một chữ, có thể là vì nghe lầm! Ngày mai, ta sẽ tra hỏi thư lại xem ở huyện này xem có ai tên là Mã Giám Sinh không?” Phu nhân khen: “Lang quân làm thế là đúng!” (hồi 26).
Tới chuyện Vương Thuý Vân trả chồng cho chị:
Rượu được một tuần thì Vân đứng dậy thưa với cha mẹ: “Con có một việc muốn trình cha mẹ!” Vương ông hỏi:”Con có việc chi cứ nói!” Vân thưa:”Thưa cha mẹ! Một là ngôi nhà này chỉ là ngôi nhà mà gia đình ta thuê để tạm cư trong thời gian hỏi thăm tin tức chị Kiều con. Nay Kim lang với em trai con cùng có lệnh phải đi phó nhậm, đã có văn thư bổ nhậm trong túi, nên chúng con chẳng thể ở lại đây lâu. Hai là Kim lang với em con phải đi phó nhậm ở hai nơi nam bắc khác nhau nên chúng con chẳng thể cùng đi. Thế mà bây giờ, gia đình ta phải giải quyết ngay một việc cần có sự hiện diện của tất cả mọi người trong gia đình, nên con nghĩ gia đình ta phải giải quyết ngay việc ấy trong đêm nay!” Vương phu nhân hỏi:” Ý con muốn nói việc chi?”
Vân đáp:”Việc chị Kiều con phải phối hợp với Kim lang. Vì chữ hiếu, chị bán mình cứu cha nên chị đã nhờ con thay chị mà phối hợp với Kim lang cho vẹn lời thề. Vì thương chị, con đã nhận lời. Nay chị đã may mắn thoát chết, thì lời thề cũ vẫn còn nguyên! Nếu đêm nay chị không thực hiện lời thề ấy thì chờ đến bao giờ mới lại có sự hiện diện đông đủ của mọi người trong gia đình ta như thế này?” (hồi 28).
Trong thi pháp sáng tạo của tản văn, ký hiệu học là một thành phần sử dụng cho thuyết thoại, như trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân sử dụng những tên riêng mang ý nghĩa hàm ngụ nhân cách như Mã bất Tiến (học dốt), Mã Quy (mở ổ gái để cho vợ con làm nha đầu – chú thích của dịch giả) để chỉ con người Mã Giám Sinh, Thúc Thủ nghe như sự bó tay bất lực của Thúc Kỳ Tâm…
Dẫu sao Kim Vân Kiều truyện vẫn nằm trong hệ tiểu thuyết cổ điển của Trung hoa, nên cũng giống như những Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai, chỗ nào cũng có thơ phú. Chẳng hạn, trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều mộng thấy Đạm Tiên nói cho hay có tên trong sổ đoạn trường và ra mười đề thơ:
Vâng trình hội chủ xem tường
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Cùng người một hội một thuyền đâu xa
Này mười bài mới mới ra
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời
Kiều vâng lĩnh ý đề bài
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
Song Nguyễn Du không nói mười đề thơ đó và cũng không viết ra mười bài thơ đó như trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân; mười đề thơ đó là: Tích đa tài, Lân bạc mệnh, Bi kỳ lộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiến ngộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên, Khốc tương tư và còn viết ra nguyên mười bài thơ hồi văn Kiều làm.(xem hồi 2).
Người đọc có thể liên tưởng đến mấy lý do: trong truyện thơ Quốc âm theo thể lục bát, đưa ra mười bài thơ khác luật, lại bằng Hán văn thật không ổn; kể cả lấy lại nguyên mười bài hồi văn trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân cũng không ổn, hoặc Nguyễn Du chế tác ra mười bài khác cũng không ổn, chẳng lẽ nàng Kiều trong cùng không-thời gian lại có mười bài thơ khác nhau.
Sự khác biệt giữa tản văn tiểu thuyết và truyện thơ có thể biểu hiện trong cảnh Kiều ra ở lầu Ngưng Bích; trong tác phẩm của Nguyễn Du là những vần thơ lai láng tuyệt vời:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
…
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Trong tiểu thuyết là cảnh hiện thực: Lầu này có mặt tây trông về Kỳ sơn, nơi có móc trắng đọng trên cỏ kiêm cỏ gia, mặt nam trông về Kim Lăng, nơi có rồng hổ của tiên nuôi, mặt đông trông ra bãi dâu xanh trên hòn đảo nhỏ, mặt bắc trông về kinh đô, trong mây có hình cổng ngự thành (xem hồi 9).
Cảnh Kiều báo oán, trong truyện thơ thật đơn sơ nhưng súc tích:
Lệnh quân truyền xuống nội đao
Thề sao thì lại cứ sao gia hình
Máu rơi thịt nát tan tành
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời
Cho hay muôn sự tại trời
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta
Trong tiểu thuyết ở hồi 22 tả cảnh hành hình xử phạt đầy vẻ bạo động khủng cụ. Đối chiếu hai tác phẩm cùng diễn tả một cảnh,có thể suy ra một số những đặc tính: ở tản văn thuyết thoại, hình thái truyện kể có thể bành trướng và xoắn vẹo để mở rộng những tác động của nhân vật, có thể tóm lược, ở thơ không thể tóm lược hơn, thiên về cảm tính hơn là hiện thực. Tính khác biệt ấy chỉ ra tại sao có thể nói Nguyễn Du sáng tạo ra một truyện Kiều, cũng những sự biến ấy, nhưng không là sao bản của tiểu thuyết.
Dịch giả Kim Vân Kiều truyện là một giáo sư toán, việc ông làm văn chương không có gì phải lạ, dường như tinh thần toán học thiên về những hình thái trừu tương cũng giống như tinh thần văn chương thiên về những hình thái giả tưởng, mà giả tưởng và trừu tượng là hai mặt bổ sung trong sáng tạo.
Trong thế giới văn học hiện đại, có những tác phẩm tưởng như rơi vào quên lãng được phục hồi lại trong những thời đại về sau, chẳng hạn như Manuscrit trouvé à Saragosse của Jean Potocki, Locus Solus của Raymond Roussel. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có thể kể như được phục hồi trong tinh thần này qua công trình dịch thuật của giáo sư Đàm Quang Hưng.
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng đen hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sác đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
Kiều càng sác sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Tham khảo:
Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống êm ấm cùng cha mẹ và 2 em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, thề nguyền đính ước với nhau.
Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa đẩy vào lầu xanh, được Thúc Sinh cúư khỏi lầu xanh nhưng bị Hoạn Thư ghen, Kiều phải trốn đi nương náu ở chùa Giác Duyên. Vô tình Kiều lại rơi vào tay Bạc Hạnh, Bạc Bà phải vào lầu xanh lần thứ 2. Kiều gặp Từ Hải. Từ Hải lấy Kiều làm vợ, giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết. Kiều bị bắt ép gả cho tên thổ quan. Nàng tủi nhục trầm mình ở sông Tiền Đường, Được sư Giác Duyên cứu, nương nhờ cửa Phật lần thứ 2.
Kim Trọng trở lại, kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn đi tìm Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim-Kiều gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Kim gặp Kiều đổi tình yêu thành tình bạn.
Thúy Kiều, nhân vật chính trong Truyện Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn, có tâm hồn cao thượng. Nhận dịp du xuân, nàng gặp Kim Trọng, một thanh niên hào hoa phong nhã. Hai người yêu nhau và cùng nhau thề nguyền thủy chung. Nhưng tai họa bất ngờ ập đến với Kiều. Gia đình bị nạn. Kiều tự nguyện bán mình chuộc cha. Bị bọn Mã Giám Sinh và Tú Bà đưa vào lầu xanh. Kiều định tự tử để thoát khỏi cảnh ô nhục nhưng không được. Sau lần mắc mưu Sở Khanh đi trốn bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn, nàng đành chịu tiếp khách. Ít lâu sau, Kiều được Thúc Sinh - một kẻ giàu có say mê nàng, chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng chưa được một năm Kiều lại bị Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh, bày mưu bắt về hành hạ. Nàng bị bắt làm con ở hầu rượu gãy đàn mua vui cho vợ chồng ả. Khổ nhục quá, Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư nhưng lại lọt vào một lầu xanh khác. Ở đây, nàng gặp Từ Hải và trở thành vợ người anh hùng này. Phất cờ khởi nghĩa, hùng cứ một phương, Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Nhưng cũng chẳng bao lâu, Kiều bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến, nàng khuyên Từ Hải ra hàng phục triều đình, Từ Hải bị phản bội và chết đứng. Kiều bị làm nhục và bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, nàng đã tự tử ở sông Tiền Đường nhưng lại được sư Giác Duyên cứu sống. Kim Trọng và gia đình Thúy Kiều đi tìm. Sau mười lăm năm trời lưu lạc, Kiều trở lại sum họp với gia đình. Nàng từ chối không chắp nối mối duyên xưa cùng Kim Trọng mà họ trở thành bạn bè để giữ tình cảm cho được trong sáng và đẹp đẽ.
Em tham khảo:
vũ nương và thúy kiều khổ như nhau
VÌ:
* Nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ: Nàng Vũ Nương là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy bất công đối với người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ) - sự cách biệt giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm "thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu" và cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo và gia trưởng.
Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Trương Sinh tin nên đã hồ đồ độc đoán mắng nhiếc đánh đuổi vợ đi, không cho nàng thanh minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan khuất để tự minh oan cho mình.
Cái chết đầy oan ức của Vũ Nương cũng không hề làm cho lương tâm Trương Sinh day dứt. Anh ta cũng không hề bị xã hội lên án. Ngay cả khi biết Vũ Nương bị nghi oan, Trương Sinh cũng coi nhẹ vì việc đã qua rồi. Kẻ bức tử Vũ Nương coi mình hoàn toàn vô can
* Nhân vật Thuý Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du: Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền đen bạc:
Vì tiền mà bọn sai nha gây nên cảnh tan tác, chia lìa gia đình Kiều.
"Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền
"Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã giám sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè, mặc cả, ngã giá...
Cũng vì món lợi đồng tiền mà Mã giám sinh và Tú bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, cay đắng suốt mười lăm năm lưu lạc, phải "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần"
* Nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ: Nàng Vũ Nương là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy bất công đối với người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ) - sự cách biệt giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm "thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu" và cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo và gia trưởng.
Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Trương Sinh tin nên đã hồ đồ độc đoán mắng nhiếc đánh đuổi vợ đi, không cho nàng thanh minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan khuất để tự minh oan cho mình.
Cái chết đầy oan ức của Vũ Nương cũng không hề làm cho lương tâm Trương Sinh day dứt. Anh ta cũng không hề bị xã hội lên án. Ngay cả khi biết Vũ Nương bị nghi oan, Trương Sinh cũng coi nhẹ vì việc đã qua rồi. Kẻ bức tử Vũ Nương coi mình hoàn toàn vô can
* Nhân vật Thuý Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du: Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền đen bạc:
Vì tiền mà bọn sai nha gây nên cảnh tan tác, chia lìa gia đình Kiều.
"Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền
"Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã giám sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè, mặc cả, ngã giá...
Cũng vì món lợi đồng tiền mà Mã giám sinh và Tú bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, cay đắng suốt mười lăm năm lưu lạc, phải "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần"
Tham khảo:
-Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện là một trong những tác phâm rất nổi tiếng lúc bấy giờ đc viết bỏi hai tác giả đó là Nguyễn Du à Thanh tâm tài nhân.
-Đặc điểm của hai bài thơ này rất khác nhau, một bài thì là thơ, còn bài kia thì lại là văn xuôi.
-Và Nguyễn Du lấy cảm hứng từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân để viết nên bài thơ của mik.
-Chỉ với vài câu thơ thôi mà Nguyễn Du đã miêu tả đc hết những nét đẹp của Kiều, và với Thanh Tâm tài nhân thì cần rất nhiều từ ngữ để biến hóa nó, để có thể lột tả đc hết nét đẹp của Kiều.
-Thật hay phải ko nào, cuộc đối đầu của hai cây bút hàng đầu của hai đất nước khác nhau, khi chỉ miêu tả một con người và tích cách của họ
cảm ơn bạn