Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Tham Khảo
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình tại cung điện Versailles ở Thủ đô nước Pháp để phân chia lại thị trường và vùng ảnh hưởng trên thế giới. Nhưng tất cả các cường quốc đều cố tình lờ đi vấn đề khôi phục hay ít ra là nới rộng quyền cơ bản của nhân dân các nước thuộc địa mà họ đã không ít lần lớn tiếng hứa hẹn khi chiến tranh còn chưa phân thắng bại. Tại Hội nghị này, họ đã phớt lờ bản yêu sách đòi các quyền dân sinh dân chủ tối thiểu do Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước gửi đến. Ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa nhân dân với chủ nghĩa thực dân và tay sai phong kiến ngày càng gay gắt. Các phong trào yêu nước do các tầng lớp sỹ phu, trí thức, tiểu tư sản lãnh đạo đều bị đàn áp dã man và lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lớn mạnh sẵn sàng đảm đương sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng. Tình hình trên đòi hỏi truyền bá một cách có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin. Học thuyết cách mạng chân chính vào Việt Nam; vận động, tổ chức đẩy mạnh phong trào yêu nước và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, tích cực chuẩn bị các tiền đề chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một Đảng cách mạng, một tổ chức tiên phong đại diện lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cho toàn dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam đòi hỏi và trên thực tế đã hình thành những tiền đề cần thiết cho sự ra đời một tờ báo cách mạng chân chính. Trong bối cảnh của Việt Nam vào thời điểm này, người gánh trách nhiệm lịch sử đưa ra chủ trương xuất bản tờ báo này phải là người cách mạng, hiểu sâu sắc vai trò của báo chí cách mạng và chỉ có thể xuất bản và lưu hành bí mật ngoài vòng pháp luật của thực dân Pháp. Sứ mệnh lịch sử này đã được nhà yêu nước, người cộng sản Việt Nam đầu tiên nhận trách nhiệm thực hiện. Trên con đường đi tìm đường cứu nước cứu dân, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sự nghiệp báo chí của mình từ cuối năm 1917 khi Người từ Anh trở lại Pháp và sau đó tham gia Đảng xã hội Pháp. Động cơ làm báo lúc này của Người là phát biểu chính kiến của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng ngay tại nước Pháp để đấu tranh cho đội lập tự do cho dân tộc mình. Lúc đầu vốn tiếng Pháp của Người còn chưa đủ. Người phải nhờ một người bạn là luật sư Phan Văn Trường viết hộ. Không phải lúc nào ông bạn cũng nói hết hoặc nói đúng ý của Người. Nguyễn Ái Quốc hiểu chỉ có một cách là tự mình phải viết lấy để diễn đạt đầy đủ ý kiến của mình. Được sự khuyến khích của Charles Longuet, cháu ngoại của C.Mác, chủ nhiệm báo Lepopulaire (Người bình dân) cơ quan của Đảng xã hội Pháp thời kỳ này và của Gaston Monmousseau chủ bút báo La Vie Ouvrière (Đời sống thợ thuyền) Nguyễn Ái Quốc đã đi vào con đường báo chí. Sau này, Bác Hồ đã kể lại kinh nghiệm làm báo của mình như sau: “Lúc ở Pari, tuy biết nhiều tội ác của thực dân Pháp, nhưng không biết làm thế nào để nêu lên được. Một đồng chí công nhân ở toà báo Đời sống thợ thuyền cho Bác biết ở báo ấy có mục “tin tức vắn” mối tin chữ năm, ba dòng thôi và bảo Bác có tin tức gì thì cứ viết, đồng chí ấy sẽ sửa lại cho. Từ đó ngoài những giờ lao động, Bác bắt đầu viết những tin rất ngắn, mỗi lần viết làm hai bản, một bản đưa cho báo, một bản thì giữ lại. Lần đầu tiên thấy tin đã được đăng thì rất sung sướng. Mỗi lần đều đem tin đã đăng trên báo so với bài mình đã viết, xem sai chỗ nào. Về sau đồng chí ấy bảo Bác viết dài thêm vài dòng nữa, rồi lại vài dòng nữa… cứ thế kéo dài 15, 20 dòng, rồi đến cả một cột dài. Lúc đó đồng chí ấy lại bảo: “Thôi bây giờ phải viết rút ngắn lại, cũng những việc như vậy nhưng phải viết cho rõ, cho gọn”[1]”. Bài báo đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc mà ngày nay chúng ta được biết là một bài luận chiến sắc sảo với tiêu đề: “Tâm địa thực dân”. Bài báo đã phê phán những luận điệu xuyên tạc của một nhà báo Pháp ở Đông Dương. Từ năm 1919, nhiều tờ báo ở Pháp trong đó có những tờ nổi tiếng như: L’Humanité, Lepopulaire, La Vie Ouvrière, Le journal purple (Báo của dân), Le cahiers du communisme (Tạp chí cộng sản), La Correspondance internationale (Thư tín quốc tế)… đã đăng nhiều bài của Nguyễn Ái Quốc. Tháng 7/1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt động cách mạng ở các nước thuộc địa khác của Pháp như Angieri, Tuynidi, Mangát, Máctinie, Marốc, lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ) làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Số 1 ra ngày 1/4/1922. Những bài đăng trên tờ báo này đã biểu hiện tài năng báo chí và văn học của Nguyễn Ái Quốc. Sau một năm phát hành tờ Người cùng khổ và đang phát triển tốt đẹp, Nguyễn Ái Quốc dự định xuất bản một ấn phẩm định kỳ bằng tiếng Việt nhằm phục vụ kiều bào ta nơi đất khách. Người dự định đặt tên cho tờ báo này là Việt Nam hồn. Tờ Việt Nam hồn chưa kịp ra mắt thì Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Tờ Việt Nam hồn đã được các bạn của Người thực hiện. Tờ Việt Nam hồn cũng được gửi về phát hành ở Việt Nam. Khi bắt đầu bước vào nghề báo, Nguyễn Ái Quốc chưa tới tuổi ba mươi. Từ năm 1923 đến 1924, khi học tập công tác ở Liên Xô, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc làm cộng tác viên của hãng thông tấn Liên Xô và tờ tiếng Anh: Canto Gazette – Cơ quan của quốc dân Đảng Trung Quốc. Từ những bước tập viết những tin ngắn bốn, năm dòng lúc đầu, chỉ vài năm sau, Người đã sử dụng thuần thục ngòi bút của mình giữa làng báo Pari, tạo nên những tác phẩm báo chí cho đến nay vẫn còn là mẫu mực. những chủ đề khi Nguyễn Ái Quốc mới bước vào nghề đề cập thời kỳ này là những vấn đề hệ trọng đến sự tồn vong của dân tộc và đụng chạm đến nhiều nhân vật và sự kiện tầm cỡ quốc tế. Trong các tác phẩm đầu tay của mình, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn lý luận cách mạng. Các bài báo của Người thời kỳ này đã thể hiện rõ một căn bản trí thức sâu rộng. Nguyễn Ái Quốc đã để lại nhiều bài luận chiến ngôn từ sắc bén, lập trường vững chắc, nhiều tiểu phẩm chua cay đối với kẻ thù. Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản 1925 là một tác phẩm lớn mang tính tố cáo đanh thép đối với chế độ thực dân dựa trên những tư liệu đầy sức thuyết phục, không những có giá trị cao về chính trị - lý luận mà còn có giá trị cao về báo chí, văn học! Nguyễn Ái Quốc là một nhà báo như vậy, khi Người chuẩn bị cho sự ra đời của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Cuối 1924, quốc tế cộng sản phái Nguyễn Ái Quốc sang công tác ở Trung Quốc theo đúng nguyện vọng của Người được gần với Tổ quốc để có điều kiện hoạt động hơn tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam là mục đích cao nhất của Người đặt ra trong thời điểm này. Thời gian này, với cương vị uỷ viên Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam, là nhà yêu nước có sự hiểu sâu sắc văn hoá Đông Tây, là nhà cách mạng thấm nhuần sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, là một người từng nhiều năm làm báo và hiểu rõ sức mạnh của báo chí. Nguyễn Ái Quốc rất tâm đắc những tư tưởng của Lênin về báo chí: “Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị”, “chúng ta cần trước hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện”[2] “Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung”[3]. Cuối năm 1924, khi về đến Quảng Châu - Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc chuẩn bị xuất bản một tờ báo chính trị đồng thời với việc mở những lớp huấn luyện các thanh niên ưu tú đưa từ trong nước sang để làm nòng cốt cho cách mạng sau này. Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí là học trò của Người thực hiện công việc trọng đại này trên căn gác nhỏ ở khu phố buôn bán sầm uất ở trung tâm Quảng Châu. Căn gác này cũng là nơi thành lập và là trụ sở của Hội Việt Nam cách mạng. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận và đấu tranh của Tổ chức này. Báo ra hàng tuần có khuôn khổ 19x13cm, ra mỗi kỳ 2 trang, có số 4 trang. Báo có các mục sau: xã luận, bình luận, diễn đàn Phụ nữ, phê bình, tin tức, thơ ca, vấn đáp, trả lời bạn đọc, việc làm. Báo Thanh niên đảm trách nhiệm vụ cơ bản là tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Thông qua những bài viết để trình bày có hệ thống một số vấn đề cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa Mác-Lênin, kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ra sức đoàn kết chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc giành lại độc lập dân tộc. Báo in trên chất liệu giấy sáp rồi được chuyển bí mật về nước. Ở Việt Nam các tờ báo Thanh niên được các cơ sở cách mạng chép tay thành nhiều bản rồi chuyền tay nhau cho các đồng chí của mình đọc và truyền đạt tới nhân dân. Số đầu của tờ Thanh niên xuất bản ngày 21/6/1925 và tiếp tục xuất bản đều đặn hàng tuần. Với gần 90 số, báo Thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyên truyền Đường Kách mệnh, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh, góp phần tích cực chuẩn bị về mặt lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một dòng báo chí mới ÷ Báo chí cách mạng Việt Nam. Sau báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc lập ra báo Kông nông (1926), Báo Đường Kách mệnh (1927). Ngày 1/10/1929, Báo Búa liềm, cơ quan ngôn luận của Đông Dương cộng sản Đảng ra số đầu tiên. Tháng 8/1929, chi bộ An Nam cộng sản ở Thượng Hải ra báo Đỏ viết tay trên giấy sáp. Kể từ tờ Thanh niên mở đường, đến cuối năm 1929, báo chí cách mạng Việt Nam đã có trên 50 tờ báo và tạp chí là cơ quan của các cấp Hội của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng và 2 tổ chức cộng sản là Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng. Ngày 3/2/1930, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thông qua nghị quyết về kế hoạch thành lập một Đảng cộng sản chân chính. Trong mục q của nghị quyết này ra nghị quyết về báo chí với các nội dung sau: 1. Bỏ những tờ báo do Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng xuất bản trước đây. 2. Ban Trung Ương có thể xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền. 3. Bỏ những tờ báo của các hội quần chúng do Đảng chỉ đạo. 4. Duy trì tất c...

Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (tên thật là Hồ Chí Minh) có những đặc điểm mới và độc đáo so với các nhà yêu nước khác trong cuộc chiến đấu chống Pháp trước đó ở Việt Nam. Dưới đây là một số điểm đặc biệt:
- Quan điểm chính trị đổi mới: Bác đã đề xuất một quan điểm chính trị đổi mới, bao gồm chủ nghĩa cộng sản, trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Đây là một phương pháp chính trị hoàn toàn mới mẻ và khác biệt so với các nhà yêu nước trước đó, như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, và Phan Chu Trinh, mà họ chủ yếu theo đuổi các phong cách lãnh đạo đặc thù hoặc chủ nghĩa dân tộc.
- Tổ chức hệ thống lãnh đạo: Bác đã xây dựng và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với cơ cấu tổ chức mạnh mẽ và quân đội đều đặn. Đây là một phong cách lãnh đạo tổ chức chặt chẽ, khác biệt với các phong cách lãnh đạo cá nhân của các nhà yêu nước trước đó.
- Chiến lược chiến đấu: Bác đã phát triển một chiến lược chiến đấu tổng hợp bao gồm cả chiến đấu quân sự và chiến đấu chính trị, với sự tham gia rộng rãi của dân chúng. Điều này đã giúp tạo nên một cuộc chiến đấu chiến thắng chống Pháp.
- Tầm nhìn toàn diện: Bác không chỉ xem xét cuộc chiến đấu ở mặt nội chiến và dân tộc mà còn đặt ra mục tiêu toàn diện hơn, bao gồm cả khía cạnh xã hội, kinh tế và văn hóa. Ông đã thúc đẩy các chương trình cải cách và phát triển đồng thời với cuộc chiến đấu.
-> Những điểm này cùng với sự sáng tạo, sự linh hoạt, và tầm nhìn của mình, Bác đã làm nên sự khác biệt của cuộc chiến đấu chống Pháp và mở ra một hướng đi mới cho phong trào độc lập và tự do ở Việt Nam.

Câu 1: Ai là người khởi xướng phong trào yêu nước của Việt Nam theo khuynh hướng vô sản ?
A. Phan Bội Châu B. Phan Châu Trinh
C. Nguyễn Ái Quốc D. Lương Văn Can
Câu 2: Hội Duy Tân ở Trung Kì do ai sáng lập ra vào năm nào ?
A. Phan Châu Trinh năm 1908 C. Lương Văn Can năm 1905
B. Vua Duy Tân năm 1907 D. Phan Bội Châu năm 1904
Câu 3: Nguyên nhân cơ bản nhất làm cho phong trào đấu tranh của nhân dân ta đến năm 1918 cuối cùng đều bị thất bại ?
A. Do thiếu sự liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân
B. Do thiếu sự lãnh đạo của 1 giai cấp tiên tiến Cách mạng
C. Do thực dân Pháp còn mạnh, lực lượng cách mạng còn non yếu
D. Do ý thức hệ phong kiến nên lỗi thời, lạc hậu
Câu 4: Cuộc khởi nghĩa nào trong phong trào Cần Vương đầu thế kỉ XIX được đánh dấu là bước phát triển cao nhất và khi nó thất bại cũng đánh dấu sự kết thúc của phong trào Cần Vương trên phạm vi cả nước ?
A. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh B. Khởi nghĩa Hương Khê
C. Khởi nghĩa Ba Đình D. Khởi nghĩa Bãi Sậy
Câu 5: Trước sự thất thủ của thành Hà Nội , triều đình Huế đã có thái độ như thế nào ?
A. Cho quân tiếp viện B. Cầu cứu nhà Thanh
C. Cầu cứu nhà Thanh, cử người thương thuyết với Pháp
D. Thương thuyết với Pháp
Câu 6: Sắp xếp theo thứ tự thời gian kết thúc( Từ trước đến sau ) các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương
A. Khởi nghĩa Ba Đình - Bãi Sậy - Hương Khê
B. Khởi nghĩa Bãi Sậy - Ba Đình - Hương Khê
C. Khởi nghĩa Bãi Sậy - Hương Khê - Ba Đình
D. Khởi nghĩa Hương Khê - Ba Đình - Bãi Sậy
Câu 7 : Trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX, cuộc khởi nghĩa nào có quy mô lớn ?
C. Khởi nghĩa Ba Đình D. Khởi nghĩa Bãi Sậy
A. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh B. Khởi nghĩa Hương Khê

Câu 1: Trong những năm trở lại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đẫ nhanh chóng trở thành nhân vật lãnh đạo của tổ chức nào ?
A. Hội người Việt Nam yêu nước ở Pa-ri
B. Hội Việt kiều yêu nước ở Véc-xai
C. Phong trào đấu tranh của công nhân Pháp
D. Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa
Câu 2: Sau nhiều năm bôn ba ở các nước châu Phi, châu Mĩ và châu Âu, Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp vào thời gian nào ?
A. Tháng 11/1917 B. Tháng 12/1917 C. Tháng 2/1918 D. Tháng 6/1919
Câu 3: Trong thời gian học ở trường Quốc học Huế, Nguyễn Ái Quốc thường được thấy câu khẩu hiệu gì của Pháp ?
A. " Tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình"
B. " Tự do ngôn luận và tự do báo chí"
C. " Tự do, bình đẳng, bác ái"
D. " Độc lập dân tộc cho các nước thuộc địa"
Câu 4: Lực lượng chính của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên ( 1917 ) là ?
A . Nông dân - thợ thủ công
B. Công nhân - tiểu tư sản
C. Tù chính trị phối hợp binh lính người Việt trong đội quân Pháp
D. Nông dân - công nhân
Câu 1: Trong những năm trở lại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đẫ nhanh chóng trở thành nhân vật lãnh đạo của tổ chức nào ?
A. Hội người Việt Nam yêu nước ở Pa-ri
B. Hội Việt kiều yêu nước ở Véc-xai
C. Phong trào đấu tranh của công nhân Pháp
D. Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa
Câu 2: Sau nhiều năm bôn ba ở các nước châu Phi, châu Mĩ và châu Âu, Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp vào thời gian nào ?
A. Tháng 11/1917 B. Tháng 12/1917 C. Tháng 2/1918 D. Tháng 6/1919
Câu 3: Trong thời gian học ở trường Quốc học Huế, Nguyễn Ái Quốc thường được thấy câu khẩu hiệu gì của Pháp ?
A. " Tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình"
B. " Tự do ngôn luận và tự do báo chí"
C. " Tự do, bình đẳng, bác ái"
D. " Độc lập dân tộc cho các nước thuộc địa"
Câu 4: Lực lượng chính của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên ( 1917 ) là ?
A . Nông dân - thợ thủ công
B. Công nhân - tiểu tư sản
C. Tù chính trị phối hợp binh lính người Việt trong đội quân Pháp
D. Nông dân - công nhân

a) Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước:
+ Ngày 05 - 06 - 1911, từ bến cảng Nhà Rộng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Người quyết định sang phương Tây để tìm hiểu những bí mật ẩn náu đằng sau những từ: "Tự do - Bình đẳng - Bác ái".
+ Sau hành trình kéo dài 6 năm, qua nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ, Châu Âu, ... đến năm 1917, Người từ Anh trở về Pháp, tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước ở Paris.
+ Người tích cực tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga. Từ khảo sát thực tiễn, Người đã đúc kết thành kinh nghiệm rồi quyết định đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
b) Hướng đi của người có gì mới so với những nhà yêu nước chống pháp trước đó:
+ Các bậc tiền bối như Phan Bội Châu... chọn con đường đi sang phương Đông (Nhật Bản, Trung Quốc), đối tượng mà ông gặp gỡ là những chính khách Nhật để xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp, chủ trương đấu tranh là bạo động.
+ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường đi sang phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kỹ thuật và nền văn minh phát triển để tìm hiểu xem vì sao nước Pháp thống trí nước mình và thực chất của các từ "Tự do - Bình đẳng - Bác Ái". Từ đó Người hòa mình vào thực tiễn và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.

tham khảo-dựa vào sgk trang 148 để suy luận trả lời. Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mới vì: - Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước nhà rơi vào tay thực dân Pháp, nên ông đã ý thức được lòng yêu nước từ khi còn bé. - Trên cả nước, nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh liên tiếp nổ ra nhưng đều thất bại.++++++++++++++++++++Cuộc hành trình mười năm “tìm đường” (1911-1920) đã giúp Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ánh sáng khoa học, chân lý cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Theo Người, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất
Tham khảo
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mới vì: - Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước nhà rơi vào tay thực dân Pháp, nên ông đã ý thức được lòng yêu nước từ khi còn bé. - Trên cả nước, nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh liên tiếp nổ ra nhưng đều thất bại. - Đau xót trước cảnh nước mất, nhà tan, đồng thời nhìn thấy những mặt hạn chế của các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.
- Ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước. - Từ 1911 đến 1917: Người bôn ba qua nhiều nước trên thế giới. Qua đó, rút ra kết luận: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu người lao động cũng bị bóc lột nặng nề. - Từ cuối năm 1917, dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc về Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong phong trào yêu nước của Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. -> Những nhận thức và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tuy mới bước đầu nhưng đã là điều kiện cần thiết để Người đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường cách mạng đúng đắn ở giai đoạn sau.
Hướng đi của người có những điểm mới so với những nhà yêu nước chống Pháp trước đó là: - Người chọn cho mình con đường sang phương Tây, sang chính đất nước đang kìm hãm, đô hộ đất nước mình, nơi có nền kinh tế, khoa học - kĩ thuật phát triển, nơi có tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” - Đó là một con đường đúng đắn, sáng suốt. Nó không mang tính chủ quan hay cải lương mà nó mang tính chất thời đại, chỉ có đi sâu vào tìm hiểu chính kẻ thù của mình để tìm ra điểm yếu, đúng sai, tìm ra bản chất thì mới nhận diện kẻ thù một cách chính xác nhất. - Và ở đây, Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác Lê nin và cuộc cách mạng tháng Mười Nga, từ đó tìm ra con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản.

Nguyến ÁI Quốc sinh ra trong gia đình như thế nào ?
A . Công nhân nhỏ yêu nước C . Trí thức yêu nước
B . Địa chủ nhỏ yêu nước D . Nông dân nghèo yêu nước
Sau khi tham khảo một loạt sách em nghĩ là D