K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 12 2018

Lần đó, đoàn chúng tôi từ trạm M.G đến trạm LA đi trên chiếc xuồng máy đuôi tôm do một cô gái người mảnh khảnh, vai mang cây ‘‘các-bin” bằng xếp của MJ, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng điều khiển và dẫn đường. Chặng đường phải vượt qua rất dễ bị trực thăng, dễ gặp biệt kích. Trước đó người ta đồn ở trạm này có một cô giao liên rất thông minh, mưu trí có cái mũi rất thính, có thể phân biệt được mùi địch, mùi nào là Mĩ, mùi nào là ngụy... Lúc lên đường, tối mới gặp cô giao liên độ mười tám hai mươi là cùng, và biết thêm ở trạm này chỉ có một chị nuôi và một nữ giao liên chính là cô gái ấy nên tôi rất mừng. Trước khi xuồng nổ máy cô căn dặn mỗi người có gì quan trọng nên để trong túi áo, hoặc để trong một cái gói riêng. Tôi chợt nhớ ra, mở bổng, lấy cây lược cho vào túi nhái dựng giấy lờ bỏ vào túi ngực, rồi cài kim tây lại thật cẩn thận.

Trong những ngày đầu hòa bình vừa lập lại, tôi và ông Sáu đôi bạn cùng về thăm quê, nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kênh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. Đầu năm 1946, hai chúng tôi cùng đi bộ đội, khi đó bạn tôi đã có một đứa con gái lên một tuổi. Khi về thăm quê, xuồng vừa cập bến bạn tôi thấy một đứa con gái độ 8 tuổi, tóc cắt ngang tai, mặc quần đen... đang chơi trước sân nhà... Biết là con mình, anh Sáu vội bước tới kêu to: “Thu! Con". Nhưng đứa bé ngơ ngác, lạ lùng, tròn mắt nhìn. Bạn tôi bị xúc động, vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên. Anh run run gọi: “Ba đây con!" nhưng con bé tái mặt đi, vụt bỏ chạy và kêu thét lên! Mấy ngày phép ngắn ngủi ở nhà, con bé không kịp nhận ra ông Sáu là ba nó. Nó gọi trống không. Chắt nước cơm, nhắc nồi cơm,... nó cũng đáo để chẳng thèm nhờ ông Sáu. Lúc ăn cơm, ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá to vàng thì nó bất thần hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy nghĩ, bạn tôi vung tay đánh vào mông nó và hét lên: “Sao mày cứng đầu quá vậy,?”. Đứa con gái bỏ sang nhà ngoại và khóc ở bên ấy.

Sáng hôm sau, hai anh em chúng tôi chuẩn bị lên đường trở về đơn vị. Bà con đến rất đông để đưa tiễn ông Sáu. Con bé Thu cũng từ nhà ngoại trở về, và mặt nó có cái gì hơi khác. Lúc chia tay, mang ba lô lên vai, sau khi bắt tay mọi người bạn tôi đưa mắt tìm con, rồi khẽ nói: "Thôi! Ba đi nghen con!". Bỗng con bé kêu thét lên: “Ba... Ba!" Nó chạy xô đến, dang hai tay ôm chặt lảy cổ ba nó. Nó hôn tóc, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba nó mà nó không nhận ra được ba nó. Nằm nghe bà giảng giải, nó nằm im thở dài... Lúc nó vừa nhận ra thì ba nó đã đến lúc đi rồi... Nó ôm chặt lấy ba nó rồi dang hai chân câu chặt lấy ba nó, không cho ba nó đi. Mẹ nó vỗ về mãi. Anh Sáu hứa với nó thống nhất ba sẽ về... Ngoại dỗ nó: để ba cháu đi, ba sẽ mua cho cháu một cây lược. Con bé mếu máo: "Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba”.

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến từ khi con gái anh vừa tròn tuổi. Sau hiệp định kí kết lập lại hòa bình cho đất nước anh được về phép thăm con gái và gia đình. Với lòng mong mỏi được gặp con của mình, anh khát khao được nhận con gái.

Nhưng bé Thu, con gái anh không nhận anh là cha chỉ vì vết sẹo trên mặt không giống với bức ảnh anh chụp với vợ anh lúc cưới. Không những thế, bé Thu còn đối xử với anh như người xa lạ, luôn xa lánh anh Sáu. Anh khổ tâm vô cùng. Trong suốt ba ngày nghỉ phép, anh không đi chơi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà chăm sóc con, mong được gần gũi và được con gái mình gọi một tiếng cha thiêng liêng ý nghĩa. Cho đến tận giây phút cuối cùng chia tay mọi người để anh trở lại chiến khu, thì bất ngờ bé Thu thét gọi cha mình trong niềm xúc động mãnh liệt.

Trở lại chiến trường anh mang theo lời hứa sẽ mua cho con chiếc lược. Tháng ngày ở chiến khu, với lòng nhớ con khôn nguôi, anh dồn toàn bộ tâm sức, tình thương của mình vào việc khắc tặng con một chiếc lược bằng ngà voi, mong ngày chiến thắng trở về yêu tặng con mình. Nhưng thật không may, trong một trận càn của địch, ông Sáu bị thương nặng.

Trước lúc nhắm mắt, ông chỉ kịp trao lại cho người bạn của mình là ông Ba chiếc lược với lời nhắn hãy trao tận tay con gái bé bỏng của ông món quà thiêng thiêng này. Thực hiện nguyện ước của bạn mình như đã hứa, ông Ba đã trao tận tay bé Thu chiếc lược khi cô đã là cô giao liên giỏi giang, dũng cảm mưu trí.

Hoc tot!!!

9 tháng 12 2017
Truyện Tóm tắt cốt truyện Tình huống chính Chủ đề
Làng Suốt mấy ngày ông Hai không dám ra khỏi nhà sau tin đồn làng chợ Dầu theo giặc. Khi tin đồn được cải chính, ông vui sướng, lại đi khoe làng của mình.

Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Niềm vui của ông Hai khi nghe tin cải chính

Ca ngợi tình yêu quê hương, làng quê, đất nước
Lặng lẽ Sa Pa Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa bốn nhân vật: ông họa sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe và anh thanh niên phụ trách trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn - Xe dừng đột ngột khi vừa qua Sa Pa Khẳng định vẻ đẹp bình dị của con người lao động và ý nghĩa của những cống hiến thầm lặng
Chiếc lược ngà Ông Sáu tham gia kháng chiến, khi trở lại nhà thì con gái lên tám tuổi. Bé Thu không nhận ra cha. Đến lúc nhận ra cha cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Vào chiến khu, ông Sáu làm một chiếc lược ngà để tặng con.

Bé Thu nhất quyết không nhận cha

- Lúc bé Thu nhận ra cha là lúc ông Sáu vào khu căn cứ

- Ông Sáu hi sinh và chưa kịp trao cây lược ngà cho con

Ca ngợi tình cha con sâu nặng
25 tháng 5 2016

Giới thiệu nhân vật và tình huống truyện:

- Tác giả không chú ý đến khắc họa phần anh hùng trong đời ông mà chỉ chú trọng khắc họa chân dung người cha với những tình cảm sâu sắc, cao đẹp và những nỗi đau, bất hạnh trong đời ông.

- Đi chiến đấu, ông bị thương, vết thương để lại trên khuôn mặt ông một vết thẹo lớn.

- Vì vết sẹo ấy, trong lần về thăm nhà ông lại chịu nỗi đau tinh thần: đứa con gái ông hằng thương nhớ, khát khao gặp mặt suốt bảy năm đằng đẵng, lại vì vết sẹo không chịu nhận ông là cha mặc dù lần gặp con này là cơ hội gần gũi, yêu thương duy nhất của ông vì ông chuẩn bị tập kết ra Bắc không biết khi nào quay lại.

· Người cha những ngày ở nhà:

- Ông thiết tha muốn nghe một tiếng gọi ba và được chăm sóc yêu thương con mà không được.

- Suốt ba ngày yêu thương vỗ về, ông chỉ nhận được thái độ cự tuyệt ngang bướng đến bất ngờ.

- Khi bị đứa con từ chối, ông vô cùng đau đớn; khổ tâm đến nỗi không khóc được.

- Chỉ đến phút cuối cùng lúc chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc làm cha, nhưng giây phút ấy quá ngắn ngủi, vì nhiệm vụ ông lại phải từ biệt đứa con gái yêu dấu của mình.

· Người cha ở chiến khu:

- Bao nhiêu tình cảm yêu thương, nhớ nhung, ông dồn vào việc làm chiếc lược ngà, món quà kỉ niệm ông đã hứa tặng con gái ngày ra đi: lúc rảnh rỗi anh ngồi cưa từng chiếc răng lược cho đến khi hoàn thành, những đêm nhớ con anh lấy cây lược ra ngắm nghía.

- Chiếc lược ngà đối với ông là vật kỉ niệm, vật mang tâm hồn, chứa đựng biết bao tình thương, nỗi nhớ của ông đối với con gái yêu. Chiếc lược là niềm an ủi động viên ông trong những ngày tháng gian khổ. Có thể nói, chiếc lược ngà là biểu tượng tình cảm cha con, một tình cảm thiêng liêng, sâu nặng và bất diệt.

- Bị thương nặng, chỉ đến khi gửi lại chiếc lược ngà lại cho bạn với lời nhắn nhủ sẽ trao tận tay bé Thu, ông mới yên lòng nhắm mắt

25 tháng 5 2016

vui

22 tháng 1 2018

 Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn Nam Bộ nên trong văn thơ của ông có cái chất hồn hậu, mộc mạc mà thấm tình người như chính con người Nam Bộ vậy. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sáng tác năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ gay gắt, quyết liệt ở chiến trường miền Nam. Trong không khí chiến tranh, tình cảm cha con trong truyện ngắn được nhà văn làm nổi bật tạo sự xúc động mãnh liệt cho người đọc. Trong các nhân vật trong truyện ngắn, hình ảnh người cha, tức ông Sáu thật khiến người đọc cảm thấy thật bình dị song cũng thật đẹp, tình yêu ông dành cho bé Thu làm lay động tâm hồn của độc giả.

Ông Sáu sau tám năm chiến đấu ở chiến trường, khi được nghỉ phép về thăm nhà, lòng ông nôn nao vì biết sắp được gặp con gái của mình, khi ông đi, con gái của mình mới được hơn một tuổi. Vì vậy,lần này trở về không tránh khỏi cảm giác hồi hộp, mong chờ. Có lẽ, tình cảm cha con thiêng liêng khiến ông nhận ngay ra bé Thu khi thuyền vừa mới cập bến, đó là một đứa bé khoảng lên chín, lên mười đang chơi ở gốc xoài. Sự xúc động, vui sướng khiến ông nghẹn ngào gọi tên con: “Thu! con” . Sự nôn nóng, xúc động của ông Sáu ta hoàn toàn có thể hiểu được. Với một người cha mà nói, sự xa cách, biệt li suốt tám năm ròng với chính đứa con gái mình hết mực yêu thương, nay được gặp lại vừa là niềm vui đoàn viên, vừa là niềm hạnh phúc vô bờ bến.

Tuy nhiên, mọi niềm vui của ông Sáu dường như không được lâu, bởi ngay sau đó, khi ông “bước tới vừa đưa tay đón chờ con” thì bé Thu không chạy lại ôm chặt lấy ông như ông từng mường tượng mà còn bé “tròn mắt nhìn”, cái nhìn “vừa lạ lùng, vừa ngơ ngác”. Sự xúc động làm cho vết thẹo trên mặt của ông “giật giật”, giọng nói run run không còn kìm chế được được sự xúc động: “Ba đây con! Ba đây con”. Vì sự nôn nóng, biểu hiện có phần gấp gáp, vồ vập của ông Sáu, lại thêm vết sẹo đỏ ửng trên mặt giật giật khiến cho bé Thu hoảng sợ , bé đã chạy đi, vừa chạy vừa kêu thét “má! Má”. Bé Thu là một đứa trẻ, trước mặt có người lạ, lại có phần đáng sợ bởi vết sẹo trên mặt, sự hoảng hốt của bé, ông Sáu cũng phần nào hiểu được.

Nhưng bởi vì quá hi vọng vào cuộc đoàn viên hạnh phúc này nên khi bị bé Thu khước từ đón nhận, hoảng sợ chạy vụt đi thì ông Sáu đã “ngạc nhiên, đau đớn và hụt hẫng”. Sự đau khổ của người cha bị chính con mình từ chối thừa nhận được nhà văn Nguyễn Quang Sáng miêu tả rất xúc động : “đau đớn khiến mặt anh sầm lại…hai tay buông thỏng như bị gãy”. Người cha náo nức vì niềm vui được gặp con gái,muốn ôm con vào lòng với tất cả sự âu yếm dành dụm bao năm xa cách nhưng lại bị đứa con hoảng sợ, chối từ. Đó chẳng phải nỗi đau đớn, tuyệt vọng nhất của một người cha hay sao?

Hai ngày ở nhà, ông Sáu cũng chẳng dám đi đâu xa, cứ quanh quẩn tìm mọi cách để được gần con, mong mỏi sự đón nhận của bé Thu. Tuy nhiên, hiện thực diễn ra khiến ông vô cùng đau lòng, bé Thu không những nhất quyết không chịu nhận ông, mà một chút quan tâm, chút lễ phép đối với ông cũng không có. Khi được má sai vào gọi ba xuống ăn cơm, bé Thu cũng gọi cộc lốc, trống không, gọi chỉ vì bắt buộc phải làm vậy: “cơm chín rồi”.Lúc ấy ông Sáu “vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Tuy là cười đấy, nhưng sao nụ cười này thật buồn, còn man mác sự thất vọng, bất lực, khổ tâm của người cha. Vì dù bao nhiêu cố gắng đi nữa thì cũng đều vô vọng, chính đứa con gái ruột thịt mình yêu quý đều một mực khước từ, thậm chí còn phủ nhận sự xuất hiện của ông.

Tuy rất buồn nhưng chưa một phút giây nào ông Sáu thôi cố gắng, thôi chăm chút, lo lắng cho bé Thu. Trong bữa cơm gia đình, vì yêu thương con nên ông Sáu đã gắp cho con miếng trứng cá to nhất, ngon nhất. Nhưng đáplại cử chỉ ân cần ấy là sự chối bỏ quyết liệt của con bé, con bé không những không đón nhận nó mà còn dùng đũa hất miếng trứng ra ngoài. Vì quá tức giận, ông Sáu đã đánh con. Đánh con nhưng lòng người cha còn đau gấp bội. Vì hành động nóng nảy này mà đến lúc hi sinh, ông Sáu vẫn mang theo sự hối hận. Đến tận lúc chia tay, lên đường vào chiến trận, ông Sáu vẫn “buồn nẫu ruột”, ông không dám chạy lại ôm con, bế con vì sợ con bé hoảng sợ. Ông chỉ đưa mắt lên nhìn, cái nhìn cũng “buồn rầu”. Nhưng thật bất ngờ,vào giây phút cuối cùng, khi sắp phải chia tay, ông Sáu lại vỡ òa trong hạnh phúc vì tiếng gọi ba bất ngờ từ bé Thu “b…a..”. Ông Sáu sững sờ, một lần nữa không kìm nén được xúc động, người đàn ông ấy một tay ôm con, một tay lau nước mắt. Có thể nói, đây là món quà ý nghĩa nhất mà ông Sáu nhận được trước giây phút lên đường.

Vào chiến trường, ông Sáu không giây phút nào thôi nhớ con, vì lời hứa mua cho bé Thu một chiếc lược, nên khi nhặt được một mảnh ngà, ông đã vui sướng như nhặt được một thứ gì lớn lao lắm. Rồi cũng tự tay ông làm món quà này tặng cho con. Trên chiếc lược ông còn kì công khắc lên những dòng chứa đầy yêu thương: “Yêu nhớ, tặng Thu con của ba”. Khi chiến đấu, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông Sáu vẫn nhớ đến con. Thu hết tàn lực, ông lấy ra cây lược, trao cho ông Ba, bạn chiến đấu thân thiết của mình, cũng là người ông tin tưởng nhất lúc này. Không đủ sức chăng chối điều gì, ông Sáu chỉ nhìn ông Ba thật. Ánh nhìn ấy ám ảnh và thiêng liêng hơn một lời di chúc. Và đến lúc nhận được lời hứa từ ông Ba: “Tôi sẽ mang về trao tận tay cháu”, ông mới nhắm mắt đi xuôi. Ông Sáu ra đi, nhưng kỉ vật là cây lược ngà, vật chứa đựng biết bao tình cảm của ông dành cho con thì vẫn còn mãi đó. Tấm lòng của người cha dành cho con đến phút cuối của cuộc đời vẫn bao la như vậy, da diết như vậy.

Thông qua nhân vật ông Sáu, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ khắc họa được sinh động mà không kém phần chân thực hình ảnh người cha vĩ đại, cùng với tình yêu to lớn dành cho con của mình. Mà còn đánh động vào sâu thẳm trãi tim mỗi độc giả tình cảm cha con. Tôi tin rằng đọc tác phẩm này, nhiều độc giả nhớ về cha mình, nhớ về những hi sinh thầm lặng của cha trong suốt cuộc đời để dành cho chúng ta. Ta cảm nhận được sự thiêng liêng, vĩ đại nơi ông Sáu, ông không chỉ dành cho bé Thu tình cảm tuyệt vời nhất mà còn lưu giữ lại cho bé Thu một kỉ vật, đó chính là chiếc lược ngà, để khi nhìn vào đó, bé Thu có thể nhớ về cha mình, biết được tình cảm của cha dành cho mình sâu đậm đến mức nào

Không chỉ là một người cha hết lòng yêu thương con, ông Ba còn là một người chiến sĩ cách mạng kiên trung, dũng cảm. Ông gắn bó với chiến trường, ngày ngày đối đầu với mưa bom bão đạn cũng chỉ mong mỏi đất nước được hòa bình, đất nước được tự do. Ông đã dành hơn nửa cuộc đời của mình để chiến đấu, dù có thương nhớ con nhưng ông cũng chưa bao giờ từ bỏ, vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến bất cứ lúc nào về Tổ quốc, quê hương của mình. Ta có thể thấy, dù yêu con nhưng ông Sáu cũng biết được trách nhiệm lớn lao của mình đối với Tổ Quốc. Vì vậy mà ông gác lại mong muốn được gặp con, được ôm con vào lòng, thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc thân yêu. Không chỉ chịu nhiều nỗi đau về thể xác khi chiến đấu, vết tích còn để lại đó là vết thẹo dài trên mặt mà ông cũng đã hi sinh tính mạng của mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Như vậy, thông qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ làm nổi bật lên sự thiêng liêng của tình cha con, nỗi đau, nỗi mất mát mà chiến tranh mang lại cho mỗi gia đình. Mà nhà văn còn khắc họa thành công nhân vật ông Sáu, người chiến sĩ kiên trung, song cũng là một người cha dành cho con mình tình cảm yêu thương vô bờ bến. Câu chuyện về ông Sáu thật khiến người đọc xúc động, bồi hồi, bởi hình ảnh ấy quá đẹp, nó chạm vào phần tình cảm sâu thẳm trong trái tim mỗi độc giả, đó là tình phụ tử thiêng liêng

22 tháng 1 2018

"Chiếc lược ngà" là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha - con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy.

Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 luổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi "ba" một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ "nhận ra" ba mình và kêu thét lên: "Ba... ba!". Ông ôm con "rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con". Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải - vết thương chiến tranh - đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra gương mặt người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con, với lời hứa mang về cho con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt "sao mình lại đánh con " cứ giày vò ông mãi. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát... do quân giặc đem đến cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá.

Sau năm 1954, ông Sáu không tâp kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mới ở lại miền Nam "nằm vùng" hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bố triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp. Gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mĩ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa con bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con.

Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ - tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mỹ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông "đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở... Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là "ngôi mộ bằng phẳng như mặt rừng". Nhưng chỉ có "tình cha con là không thể chết được!"

Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện "Chiếc lược ngà" sâu nặng tình cha - con, chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.

Truyện "Chiếc lược ngà" và hình ảnh ông Sáu, bé Thu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩ về tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Và bài học "uống nước nhớ nguồn "càng thêm thấm thía.

5 tháng 11 2017

                         “Cánh cò cõng nắng qua sông

                          Chở luôn nước mắt cay nồng của cha

                          Cha là một dải ngân hà

                          Cha là giọt nước sinh ra từ nguồn…”

Khi đọc những câu ca trong bài “Ca dao về cha” khiến tôi nghĩ về hình tượng người cha. Nếu hình ảnh mẹ không bút nào tả xiết, thì người cha trong gia đình cũng vậy. Nếu người mẹ dạy cho con lòng nhân hậu, thì người cha truyền cho con lương tri, sức sống. Ai dám khẳng định rằng tình yêu của cha không bằng mẹ? Để trả lời điều băn khoăn này, chúng ta hãy cùng hướng về hình ảnh người cha qua 3 tác phầm: Lão Hạc của Nam Cao; Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng và bài thơ:” Nói với con “ của Y Phương.

          Cha lúc nào cũng vẫn là cha, là nguồn sức mạnh tinh thần vô biên cho con cái. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm nào cha vẫn là điểm tựa cho con. Ở đây hình tượng người cha trong xã hội cũ (xã hội thực dân nửa phong kiến) và người cha trong chiến tranh, rồi người cha trong hoà bình, họ đều có một điểm nổi trội không khác gì người mẹ đó là tình yêu và thương con cái dạt dào sâu sắc. Họ cũng hy sinh vì con cái, họ cũng quặn trong lòng nỗi đau con cái. Bất cứ ở giai đoạn nào từ xưa đến nay trong gia đình, người cha vẫn được coi là trụ cột, là nóc nhà. Chính vì thế mà vai trò của người cha vô cũng to lớn. Đứng ở phương diện chung thì chúng ta đều có cái nhìn khái quát ở cả 3 tác phẩm hình tượng người cha khá rõ nét, đó là tình yêu, tình thương con da diết, tình cảm ấy lúc nào cũng đau đáu ngự trị trong lòng và ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào. Chỉ khác một nỗi tình yêu thương con ở mỗi một ngươi cha biểu hiện khác nhau.

          Trước hết, Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên (một người cha trong xã hội cũ- xã hội thựcdân nửa phong kiến) Nam Cao đã cho ta thấy Lão Hạc yêu con sâu sắc đến nhường nào. Lão luôn day dứt vì mình không phải với con. Lão thương con đến đứt ruột nhưng lại bất lực để con phải đi phu để rồi cả cuộc đời lão là sự khổ đau, lo lắng, dằn vặt. Khi đói khát ăn củ chuối, rau dại mà không dám bán vườn vì con. Sự lo lắng của người cha từng trải lo cho tương lai của con "Ai lại bán vườn đi, bán đi con về ở đâu?" Bao câu hỏi khi trò chuyện với ông giáo về sự dằn vặt ấy. Đôi mắt lão rưng rưng lệ, ngậm ngùi trong tiếng nấc để rồi bất lực, cam chịu. Yêu con vô bờ bến, lão Hạc quyết tâm giữ mảnh vườn, ngôi nhà của mình cho con để rồi trông ngóng đứa con nơi phương xa. Để lấp đầy khoảng trống của nỗi nhớ con, lão Hạc đã dành cả tình yêu thương cho con chó được gọi là "cậu Vàng" (con chó mà lúc ở nhà, con lão đem về). Lão trò chuyện với nó thay với con cho đến lúc không thể nuôi được nó, lão phải bán đi để rồi khóc tủi nhục mà dẫn đến cái chết. Thương con, lão đau lòng lắm vì ám ảnh cho cái nghèo( cái đau của lòng yêu thương và có nhân cách của người cha trong xã hội cũ) .Thương con không chỉ thể hiện qua cách ứng xử mà thương con, với lão, còn là một nguyên tắc sống, Lão âm thầm hy sinh thân mình để mong con có một tương lai tốt đẹp khi về, để rồi lão chết trong đau đớn, quằn quại mà vẫn cam lòng.

          Song đến hình ảnh người cha trong chiến tranh của Nguyễn Quang Sáng qua truyện ngắn "Chiếc lược ngà" là một hình ảnh cha con sâu đậm, đẹp đẽ. ông Sáu- một người cha, người lính trong chiến tranh vì nhiệm vụ mà phải xa gia đình, xa quê hương. Sự khao khát cháy bỏng được gặp con và nghe con gọi tiếng "cha" lúc nào cũng canh cánh bên ông. Song tình thương con của người cha- người lính có vẻ như nghiêm khắc, khắt khe và nóng vội. Khi anh giơ tay lỡ tát con lúc bé Thu hất cái trứng cá ra khỏi bát. Thực ra tình yêu thương con trong anh bị dồn nén, hấp tấp, có lúc thương xót, lúc lại giận, lại vui, mừng mừng, tủi tủi. Xa con vì chiến tranh, anh muốn bù đắp cho con phần nào. Nên khi gặp con, tình cha con như đựơc nối kết bằng một sợi dây huyết thống, để người cha cảm nhận bằng những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời người lính từng trải lần đầu tiên rơi khi cảm nhận được sự ấm áp trong tình cảm cha con. Anh Sáu "một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt". Thế rồi tình yêu con của ông Sáu lại gián tiếp, ông dồn tất cả tình yêu thương đó vào cây lược ngà (theo ước muốn của con) ông thận trọng tỉ mỉ gọt dũa, ông muốn tự tay làm cây lược cho con. Thật xúc động khi "kiếm được khúc ngà, ông sung sướng như trẻ con vớ được quà". Tình cảm ông dành cho con trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt nhưng thật giản dị và cảm động khi ông Sáu hy sinh, không kịp trao cho con cây lược mà tình yêu thương, mong nhớ con đều dồn nén vào một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn sẽ thực hiện được lời hứa duy nhất của mình với con trước khi qua đời, thật là một tình phụ tử đẹp và tồn tại như một bài ca vĩnh cửu.

Tình cảm cha con hoà quyện, gắn chặt với tình yêu thương quê hương, yêu đồng bào. Đó là lời răn dạy con bằng tất cả tình yêu thương con mộc mạc nhưng chứa đầy ý nghĩa trong thơ Y Phương.

    Tóm lại hình ảnh người cha trong văn học đã truyền vào trong lòng mỗi con người khi sinh ra và lớn lên những dấu ấn thật đậm nét không bao giờ phai mờ. Đó là một điều ta có thể khẳng định dựa vào câu ca dao ngàn đời vẫn ghi tạc trong lòng chúng ta:

                                                  "Công cha như núi Thái Sơn

                                          Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"

    "Nghĩa mẹ", "công cha" là thế đó.

5 tháng 11 2017

1 . Nét chung:- Hai tác phẩm cùng hướng tới một đề tài: thể hiện vẻ đẹp tình phụ tử của con người Việt Nam. Lão Hạc (Lão Hạc) và ông Sáu (“Chiếc lược ngà”) đều là những người cha yêu con hết mực, hết lòng hi sinh cho con.- Đều thể hiện bằng thể loại truyện ngắn, xúc động, hấp dẫn, chân thực…2. Nét riêng: mỗi tác phẩm gắn với một giai đoạn lịch sử, một khuynh hướng sáng tác, một cá tính sáng tạo…nên có những phát hiện, thể hiện riêng.a. Hình tượng người cha trong “Lão Hạc” của Nam Cao.- Truyện ngắn “Lão Hạc” ra đời trước cách mạng tháng Tám, tiêu biểu cho phong cách Nam Cao ở giai đoạn này.- Lão Hạc là một người nông dân lương thiện, người cha nhân hậu, có trách nhiệm, dành hết yêu thương cho con, sẵn sàng hi sinh cả tính mạng cho con (day dứt khi con không có tiền cưới vợ, chăm con chó - kỉ vật của con, chuẩn bị cái chết để không ảnh hưởng đến tương lai của con…).- Sống trong xã hội cũ, người cha ấy thương con, nhưng bế tắc vì quá nghèo khổ, một người cha đáng trọng nhưng cũng rất đáng thương. Cái chết của lão thật cao thượng, nhưng xót xa, tương lai của đứa con lão cũng mịt mờ, bế tắc.- Nam Cao đã khắc họa thành công người cha bằng bút pháp hiện thực đẫm chất nhân đạo: tạo tình huống bất ngờ, miêu tả ngoại hình, phân tích nội tâm ngôn ngữ vừa giàu chất trữ tình, vừa có chất triết lí…b. Hình tượng người cha trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.- Truyện viết giữa lúc chiến tranh chống Mỹ diễn ra ác liệt (1966), từ đó làm hiện lên vẻ đẹp của người cha-người chiến sĩ Cách mạng.-Ông Sáu là người cha yêu con tha thiết (phân tích chi tiết ông trở về với tâm trạng mong mỏi gặp con, sự hụt hẫng khi con không nhận mình, ông làm chiếc lược ngà cho con…).- Hết lòng yêu thương con, nhưng ông cũng không quên nhiệm vụ chiến đấu cho tổ quốc. Ông hi sinh, nhưng trước khi chết ông dùng tất cả sức lực để trao lại chiếc lược, nhờ đồng đội gửi lại cho con . Cái chết của ông không phải là biểu hiện của sự bế tắc, mà là cái chết vinh quang, cho con, cho đất nước. Bé Thu sau này đã trở thành một giao liên, một chiến sĩ, tiếp bước con đường của cha. Ông Sáu là người cha, người chiến sỹ đáng khâm phục tự hào.- Nguyễn Quang Sáng xây dựng hình tượng ông Sáu bằng lối viết riêng. Nhà văn tạo được tình huống kịch tính, miêu tả tính cách người cha Nam Bộ mạnh mẽ mà đằm thắm, chọn được những chi tiết đắt giá. Đặc biệt, ngôn ngữ truyện đậm chất Nam Bộ… Truyện tuy buồn nhưng không bi thương, vẫn có một niềm lạc quan Cách mạng.3. Đánh giá chung: tình phụ tử là đề tài quen thuộc, nhưng bằng tài năng và tấm lòng của mình, Nam Cao và Nguyễn Quang Sáng đã có những đóng góp riêng, góp phần làm phong phú cho nền văn học dân tộc, góp phần tôn vinh một vẻ đẹp nhân cách con người.
 

9 tháng 7 2017

Chọn đáp án: D

15 tháng 11 2021

D. Yêu nhớ tặng Thu con của ba.

21 tháng 2 2020

Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm.Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”, “Người con đi xa” … Tiểu thuyết có: “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu”. Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người “một thời để nhớ, một thời để yêu”.Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn “Chiếc lược ngà” vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ.Truyện kể về ông Sáu, một cán bộ “nằm vùng tại miền Đông'“ da diết thương nhớ vợ con, dùng ngà voi làm thành chiếc lược ngà xinh xắn, trước lúc từ thương đã nhờ bạn chiến đấu trao lại chiếc lược ngà cho đứa con gái bé bỏng, yêu thương. Qua đó, tác giả thê hiện tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.

học tốt

16 tháng 5 2017

I. Tìm hiểu đề:

1. Vấn đề nghị luận : Nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Chiếc lược ngà”

2. Cách thức nghị luận : cảm nhận (phải nêu được cảm nhận sâu sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Chiếc lược ngà”)

II. Lập dàn ý:

A. Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

- “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.

- Văn bản đoạn trích là ở phần giữa câu chuyện, tập trung thể hiện sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu qua những tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí.

- Đó không chỉ là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản bền vững, mà còn được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le của chiến tranh và trong cuộc sống nhiều gian khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng đáng trân trọng và đồng thời nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống bình thường của mọi người.

B. Thân bài: Tình cảm cha con sâu nặng

1. Luận điểm 1 : Thái độ, tình cảm của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha

- Hoàn cảnh : Ông Sáu đi kháng chiến, xa nhà nhiều năm. Ông chưa được biết mặt đứa con gái – bé Thu. Tám năm sau, một lần về thăm nhà, trước khi nhận công tác mới, ông được gặp con nhưng bé Thu nhất định nhận ông Sáu là cha.

- Thái độ của Thu :

   + Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra lảng tránh và lạnh nhạt, xa cách. (D/c : Nhìn anh Sáu với cặp mắt xa lạ và cảnh giác, dứt khoát không chịu kêu tiếng “ba”)

   + Cô bé đã có thái độ ngang ngạnh, thậm chí hỗn xược với ông Sáu :D/c :mặc cho người thân khuyên nhủ, tạo tình thế bắt buộc (chắt nước nồi cơm) để bé Thu phải nhận cha, nhưng đều thất bại. Thu từ chối sự quan tâm của anh Sáu (hất đổ miếng trứng cá khỏi chén cơm, khi cha đ ánh → không khóc, bỏ về nhà ngoại)

   + Được bà ngoại trò chuyện, tìm ra lí do, cô bé đã thay đổi hẳn thái độ.

   + Về nhà để chia tay ba, Thu cảm thấy hối lỗi (chỉ đứng nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, khe khẽ nói. Thu muốn nhận ba nhưng không dám gần Ba vì trót làm ba giận (vẻ mặt nói sầm lại buồn rầu, nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa)

   + Thật bất ngờ, sau lời chào từ biệt của người cha là tiếng kêu “Ba..a…a…ba!” như xé ruột của bé Thu. Em đã thể hiện tình cảm yêu quý cha một cách mãnh liệt (hôn ba cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài bên má như muốn níu giữ ba).Thực chất bé Thu rất giàu tình cảm và trong trắng – khi biết ba đánh giặc bị thương thì ân hận vì đã không chị nhận ba và khao khát được kêu ba. Tinh huống ấy tạo xúc động cho mọi người.

Trước khi ba lên đường, cô bé đã cất tiếng gọi ba và thể hiện tình cảm yêu quý một cách mãnh liệt (D/c)

⇒ Qua đoạn trích, người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của bé Thu: yêu thương cha nhưng rạch ròi xấu – tốt, cá tính mạnh mẽ và cũng rất hồn nhiên ngây thơ. Thực chất hai thái độ trái ngược là sự thống nhất trong tính cách nhân vật. Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng.

Luận điểm 2: Tình cảm của ông Sáu dành cho con

- Nỗi khao khát gặp lại con sau ba năm xa cách.

   + Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con” Anh vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi xúc động….

   + Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gẫy.

- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.

   + Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực: Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Anh đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”.

   + Có lúc giận quá, không kìm được, ông đã đánh con và cứ ân hận mãi về việc làm đó (sau này ở chiến khu)

   + Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”…

   + Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”.

- Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con.

- Ông dồn hết tình yêu thương vào việc làm một cây lược ngà cho con.

   + Tác giả diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện ông làm chiếc lược: từ những cảm xúc của ông khi kiếm được khúc ngà: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi sau đó, anh dồn hết tâm trí và công sức vào công việc: “anh cưa từng chiếc lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng có khắc một hàng chữ nhỏ…….Trong hàng chữ ấy là bao nhiêu trìu mến yêu thương anh dành cho con gái. Chiếc lược trở thành một vật quý giá, thiêng liêng để mỗi khi nhớ con: “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Cây lược xoa dịu được nỗi ân hận vì đánh con.

   + Nhưng rồi ông đã hi sinh khi chưa kịp trao cho con chiếc lược. Trước khi hi sinh, ông dồn hết sức lực còn lại gửi người bạn mang cây lược về cho con gái

⇒ Câu chuyện về chiếc lược ngà làm người đọc cảm động vì tình cha con thắm thiết, đẹp đẽ. Nhưng cảm động hơn nữa, nó còn khiến cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát, éo le mà con người phải gánh chịu vì cuộc chiến tranh.

Luận điểm 3: Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của tác phẩm:

- Cốt truyện chặt chẽ với nhiều bất ngờ nhưng hợp lí

   + bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về thăm nhà

   + bé Thu biểu lộ tình cảm thật mãnh liệt với người cha trước lúc chia tay…

   + Nguyên nhân dẫn đến những sự việc ấy đã được tác giả giải thích một cách giản dị mà xúc động

⇒ Sự bất ngờ càng gây hứng thú cho người đọc.

- Sự gặp gỡ tình cờ nhân vật – người kể chuyện với bé Thu (bấy giờ là cô giao liên dũng cảm) trong một lần ông cùng đoàn cán bộ đi theo đường dây giao liên vượt qua một quãng nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười.

- Lựa chọn ngôi kể phù hợp: truyện được kể qua lời của một nhân vật trong tác phẩm: Ông Ba – người bạn thân của ông Sáu. Cách lựa chọn ngôi kể như vậy vừa tạo ra ấn tượng khách quan vừa có sức thuyết phục, bởi người kể chuyện không chỉ là người chứng kiến và kể lại câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Những ý nghĩ, cảm xúc của người kể chuyện làm người đọc hiểu rõ hơn các sự việc và đồng cảm với các nhân vật trong truyện, tăng thêm chất trữ tình và sức thuyết phục của truyện.

- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật (nhất là trẻ thơ) chính xác, hợp lí, tinh tế

- Ngôn ngữ tự nhiên, lời kể hấp dẫn

- Kể xen miêu tả. Giọng kể giàu cảm xúc, chân thực, sinh động, đầy sức thuyết phục.

C. Kết bài:

- Truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh

- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lí, cách miêu tả tính cách nhân vật đặc sắc, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả: cảm thông, sẻ chia, trân trọng.