Nhanh mik tick.

">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 9 2018

Đặt câu với từ thần:

Trả lời:

Hỡi thần chết! Người hãy ban cho con quyền năng của ngài, để con có thể giết hết những kẻ cản đường con

Hok tốt!

7 tháng 9 2018

Ôi thần linh ơi

30 tháng 5 2020

Cây là chủ ngữ                                                                                                                                                                                               Đứng im lìm ......thăm quê mẹ là vị ngữ

Anh em tên là Minh Hiền.Năm nay 14 tuổi, học lớp 10, Trường THPT Tam Đảo . Anh em có dáng người cân đối, khuôn mặt nhỏ nhắn, mái tóc ngắn được cắt gọn gàng, làn da trắng. Tính tình anh rất vui vẻ, hòa đồng. anh em là người con hiếu thảo, biết vâng lời cha mẹ, là người anh biết yêu thương, nhường nhịn em. Anh luôn là học sinh giỏi nhất lớp, hay giúp đỡ mọi người.Nên được thầy cô, bạn bè quý mến.Em rất tự hào về anh .Em sẽ noi gương và học tập những phẩm chất tốt của anh mình.h

Hk tốt

29 tháng 8 2019

Chị em tôi từ nhỏ đã rất thân thiết. Chị hơn tôi 5 tuổi, hiện tại đang là một cô nữ sinh duyên dáng. Chị có dáng người dong dỏng cao, mảnh khảnh như cây mai. Mái tóc chị đen láy, dài đến ngang lưng, trông xa như một làn suối nhỏ. Chị yêu mái tóc của mình lắm, chăm sóc nó rất kĩ. Từ mái tóc chị lúc nào cũng thoang thoảng một mùi hương dịu nhẹ của những loài thảo mộc như bồ kết, lá bưởi... Nước da chị trắng nõn nà làm cho không ít người phải ghen tị vì con gái nông thôn ít ai có làn da mịn màng như thế. Khuôn mặt chị đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng rằm, vầng trán cao lộ rõ vẻ thông minh. Nổi bật trên khuôn mặt thanh tú là đôi mắt bồ câu đen láy và đôi lông mày lá liễu. Người ta vẫn nói: đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Ẩn sau đôi mắt chị là cả một thế giới nội tâm vô cùng sống động, phong phú. Chị rất hay cười, mỗi lần chị cười lại để lộ ra chiếc răng khểnh thật đáng yêu.

                                                                                HỌC TỐT

16 tháng 4 2018

Đánh giá công lao của Quang Trung đối với sự nghiệp giữ nước chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
- Lật đổ chính quyền Trịnh – Nguyễn, thống nhất đất nước.
- Đánh tan quân xâm lược Xiêm - Thanh
- Viết tiếp trang sử vẻ vang về ý chí tự cường, chống ngoại xâm của dân tộc.
- Phục hồi kinh tế đất nước, ổn định trật tự xã hội, phát triển nền văn hóa dân tộc, tăng cường quốc phòng và ngoại giao bảo vệ đất nước....

16 tháng 4 2018

Là người góp công chính trong việc đánh đổ các thế lực phong kiến thống trị: Nguyễn, Trịnh, Lê.

- Đánh tan cuộc xâm lược của quân Xiêm ở Gia Định.

- Đánh tan cuộc xâm lược của 29 vạn quân Thanh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

- Góp phần tạo điều kiện cơ bản cho việc thống nhất lại đất nước sau gần 200 năm bị chia cắt.

- Đề ra những chính sách tiến bộ về kinh tế, văn hoá, giáo dục….

29 tháng 11 2018

Ở  bên vườn nọ , có một cây hoa hồng vô cùng xinh đẹp tỏa hương thơm ngào ngạt . Một hôm , có một cô bé chạy đến ngửi thấy mùi hương và phát hiện ra bông hoa , cô bé liền lại gần lấy tay hái bông hoa ra cầm chơi chạy nhảy tung tăng . Chơi một lúc chán quá cô bé liền vứt bông hoa bất hạnh ấy xuống đất thế là một vài phút sau bông hoa chết .

* Hok tốt !

Queen

P/s : Hì , tự nghĩ ó chắc ko hay

29 tháng 11 2018

có một cây hoa mới nở . nó ... nguáy mông ngoáy mông rồi chết , thấy hay nhớ k

GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
19 tháng 7 2019

Bài 1.

a. 

- Cổ: 1 bộ phận của cơ thể (cái cổ)

- Cổ: xưa cũ (cổ truyền, cổ hủ, cổ lỗ,...)

b. Từ đồng âm: "Cổ cò" và "cổ truyền". Đồng âm với nhau nhưng khác xa nhau về nghĩa.

Bài 2.

- "thu" 1 là danh từ. "Thu" chỉ 1 trong 4 mùa trong năm.

- "thu" 2 là động từ. "Thu" chỉ hành động gom, nhặt, tập hợp thứ gì đó lại.

=> đây là hiện tượng đồng âm.

- 3 từ đồng nghĩa với "thu" 2: thu âm, thu nhặt, thu lượm

Bài làm

"Quê hương là chùm khế ngọt 

Cho con trèo hái mỗi ngày 

Quê hương là đường đi học 

Con về rợp bướm vàng bay"

Mỗi khi nghe đến lời bài thư trên, bao nhiêu kỉ niệm thời thơ ấu lại ùa về. Những kỉ niệm ấy đẹp biết bao, nhưng có lẽ những kỉ niệm về quê hương thì làm tôi nhớ nhất. Quê hương - hai tiếng thiêng liêng vô cùng. Trong đó chất chứa bao ki niệm của những ngày còn chiến tranh, những ngày tôi còn là một đứa trẻ hồn nhiên. Quê hương là nơi mọi người dược sinh ra và lớn lên, là cái nôi tuổi thơ đi theo ta suốt đời. Dù có đi đâu xa xôi tôi cùng sẽ luôn nhớ đến quê hương - nơi mà mình đã được sinh ra và lớn lên. Vào những buổi sớm khi ánh binh minh vừa ló dạng, mang theo những tia nắng ấm áp cho cuộc sống làng quê bình dị, dân dã. Tôi thích nhất là dậy vào lúc sáng sớm, nhìn thấy cánh đồng lúa xanh bát ngát, từng đôi cò trắng chao liệng trên bầu trời xanh mây trắng lừng lờ trôi. Các bác nông dân ra đồng với sự hăng hái của một ngày làm việc. Lúc đó, cảnh vật và con người dường như chan hoà, một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp do “họa sĩ” thiên nhiên vẽ nên. Thật tuyệt đẹp! Lúc mặt trời đứng bóng, canh vật lúc này thật sự chìm trong cái oi bức của mặt trời. Các bác nông dân cũng đã mệt moi vì làm việc. Những buổi trưa hè oi ả, mắc một chiếc võng sau bụi tre trong vườn nằm ngủ trưa thì không còn gì bằng. Những cơn gió nhẹ thoảng qua làm cho lá tre đung dưa tạo ra tiếng kêu rì rào, xào xạc nghe thật vui tai. Những chú chim hót véo von làm tôi cỏ cảm giác như đang lạc giữa một thiên đường. Cảm xúc thật khó tả! Nhanh thật, thấm thoát ngày cũng trôi qua. Đêm đến, cà vùng quê như chìm vào giấc ngù say, chỉ còn chú gà trống vẫn ngày đêm làm việc, báo thức cho mọi người. Khác với nơi thành phố xa hoa lúc nào cùng nhộn nhịp tiếng xe cộ, tiếng ồn ào, tấp nập từ các hàng quán. Làng quê lại chọn sự yên bình, nhường chỗ cho các chú dê, ềnh ưỡng kêu ồm ộp vang suốt đêm dài. Chỉ có ở làng quê, chúng ta mới thấy hết được cái thanh bình, thoang thoảng mùi hương đồng nội, gió cỏ rì rào. Vào những đêm trăng rằm, tôi nhìn thấy cả một vầng trăng tròn, sáng rực cả một không gian. Nó khiến cho lòng tôi bâng khuâng, một cảm xúc mơ hồ chìm trong cảnh vật làng quê. Những hình ánh, những tình cảm rất thực ấy sẽ mãi mãi in sâu trong tâm trí, sẽ không bao giờ phai mờ trong trái lim lôi. Giờ đây ngẫm nghĩ lại, tôi cảm thấy yêu quê hương mình biết bao. Quê hương là bước đường giúp tôi vững bước vào đời. Thật xót xa cho những ai xa quê mà không được một lần về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi tự nhủ với lòng mình  sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này xây dựng quê hương, đất nước mình ngày càng tươi đẹp hơn, vững mạnh hơn.

P/s tham khảo nha

22 tháng 10 2018

bạn copy mạng ak 

13 tháng 4 2021

Các bạn tìm câu rút gọn trong các bài sau

Ý nghĩa văn chương

Tinh thần yêu nước của nhân dân ta

Đức tính giản dị của Bác Hồ​

Trả lời:

* Câu rút gọn trong văn bản tinh thần yêu nước của nhân dân ta: 

-  Có khi được trưng bày trog tủ kính,  rong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy.

- Nhưng cũng có khi cất dấu kín đáo trong rương, trong hòm.

- Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tih thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước , công việc kháng chiến.

#Rin'ss

#Rin_ngu_văn

10 tháng 10 2018

Sau một ngày làm việc vất vả tôi nhận được cù lao xứng đáng.

10 tháng 10 2018

cu lao chin chu ghi long con oi

22 tháng 10 2018

Ca dao, tục ngữ

Ca dao, tục ngữ của người Mưòng khá phong phú, trước hết là những câu nói về các địa danh, vùng đất và đặc sản nổi tiếng của xứ mường như:

-          Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động.

-          Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới.

-          Măng cuốc núi Chù

Ăn ngoan hơn thịt trâu xóm Bả  

-          Rau tớn mường Kha,

Ăn ngon hơn thị gà xóm Mận.

-          Rau mẹ mường Khang

Ăn ngon hơn cá pạng sông Bờ

-          Rau đắng Bưa Cà,

Ngon hơn thịt gà Bái Thiện.

 Hoặc những câu nói về kinh nghiệm sản xuất, tri thức dân gian của người mường như:

-          Sấm Mường Lạ, để dạ mà ăn.

-          Sấm Mường Ngay, quăng bừa cày lên gác.

-          Sấm Mường Khời, vẫy tay đào củ mài.

-          Sai quả dâu gia được mùa lúa ruộng,

Sai quả cha được mùa lúa nương.

-          Măng mọc thì mèo lấy giống.

-          Mây kéo ngược chẳng có nước mà uống,

May kéo xuống chẳng có ruộng mà cấy.

-          Tháng năm trâu đằm thì cá ngoi.

-          Ruộng có phân như đụm có lúa.

-          Cấy sớm hơn bừa trưa.

-          Bừa lai rai sai mùa vụ.

Người Thái có những câu ca dao, tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất như:

-          Sấm đầu năm trên đầu sông đà sửa gác,

-          Sấm đầu năm trên nguồn sông Mã sửa thuổng.

-          Sấm trước không mưa.

-          Nắng tháng 6 được lúa

      Nắng tháng 9 mất mùa

-          Làm nhà đợi danh thì không tốt,

Làm ruộng đợi mạ thì không tốt

-         Chuối đã trồng không nên nhổ

Dâu đã trồng không nên bới.

-         Bổ tre bổ đằng ngọn,

     Chẻ mây, chẻ đằng gốc.

-        Rét vừa tốt mạ,

     Rét quá tốt rau.

-       Nương rợp mắt không bằng ruộng một thửa.

-        Ngắm mây thì mất, ngắm đất thì còn.

-        Muốn ăn cơm phải bừa ruộng kỹ,

     Muốn ăn khoai phải phát rừng lồ ô

Ca dao, tục ngữ của các dân tộc ở Hoà Bình có những câu nói về ứng xử xã hội và sinh hoạt cộng đồng. Chẳng hạn như ở người mường:

-          Nòi nhà lang là dòng máu chó

Nòi kẻ khó là máu khú máu rồng.

-         Gần lang mất gà

Xa làng sợ kẻ chợ.

-         Lang đi chợ để nợ cho dân

-         Lang đến nhà như ma đến cửa

-         Con lang thì lại làm lang

Con nhà tầm thàng thì vẫn là dân

-         Một người đàn ông không dựng nổi nhà

 Một người đàn bà không cắt nổi gianh.

-         Phép quan không bằng tuần rượu

-         Rượu ai người ấy uống

Vóng ai người ấy ngồi

-          Quan tài nằm ngang họ lang

Quan tài nằm dọc họ dân.

-          Hiểu con trai xem bờ ruộng

Xét đàn bà nhìn gấu váy

-          Dao sắc gãy chuôi

Người ngay dễ chết.

-          Ngủ trưa quen mắt, mắng vặt quen mồm.

Ở người Thái thì:

-          Ruộng hoang quý trâu đực

Mường có giặc quý người gan dạ

-          Ruộng nhiều nương thì tốt

Bản nhiều tạo thì khổ.

-          Nghe lời hay chớ vội phi ngựa

Nghe lời dở chớ vội thắt cổ.

-          Hỏi đường hỏi người già

Xin cơm xin gái trẻ.

-          Thóc không phơi nắng sao khô vở     

Người không đi đây đó sao khôn.

-          Chọn vợ, xem người mẹ

Chọn trâu xem con đầu đàn.

-          Gáy của ai, người ấy không tự thấy

Ngày chết, không ai tự đoán được.

-          Chưa gặp giặc chớ khoe giỏi võ

Chưa qua sông chớ vội khoe giỏi bơi.

-          Người khôn lo tính về dài

    

Người dại lo tính lùi sau.

-          Càng ăn cơm càng thấy rét

Càng muốn làm đẹp càng tháy méo mó.

-          Lên núi này thấy thấp

Nhìn núi nọ thấy cao

-          Cây trong rừng không bằng ngọn

Nhiều người, nhiều ý khác nhau.

-          Bản nào, bản không có gà vàng

Mường nào, mường không có người giỏi.

Ca dao, tục ngữ của người dân tộc ở Hoà Bình còn có các câu nói về ứng xử gia đình, quan hệ nam nữ…..Chẳng hạn như:

Ở người Mường:

-     Uốn cây uốn khi còn non

      Uốn con uốn khi còn nhỏ

-         Trai bỏ vợ không mất một đồng

Gái chê chồng mất một thành hai

-          Đám cưới có đôi

      Cột nóc phải lẻ

-          Diện như nàng dâu đi quạt

-          Đánh con người, con người chạy ra búi bái

Đánh con mình, con mình chạy lại lòng.

-          Anh em nơi xa không bằng ba nhà búng rộc.

-          Được con dâu, sâu mặt mẹ chồng.

-          Bé con cha, lớn con chú, con ông.

-          Em trai chồng với chị dâu như trầu với lá mướp

-          Em chồng với chị dâu như măng mu rau tróc.

-          Yêu nhau đắp vó cũng ấm,

      Chẳng yêu nhau chăn bông đệm ấm ễnng chẳng nên.

-          Ngọt như dấm mẻ.

Lành như con kẻ ( con chồng) mẹ ý ( mẹ ghẻ).

-          Trăm thứ hoa không bằng hoa con cái ( gái).

-          Trăm thứ trái không bằng trái hồng cơm (lúa gạo).

-          Không lấy được em,

Không phải chê em xấu, em nghèo,

Mà tại tiền cheo trâu cưới

Ở người Thái thì:

      -    Đi nương nhớ mang theo chó,

           Đi ruộng, chớ mang theo con nhỏ

-       Làm ruộng ai chẳng muốn ngon,

     Nuôi con ai chẳng muốn khôn lớn.

-       Anh em cãi nhau ba ngày không mất

           Vợ chồng cãi nhau một buổi thành người dưng.

-       Bố mẹ khuyên chưa bằng thầy bảo,

     Thầy bảo chưa bằng tự mình suy.

-       Anh em đến nhà chớ đánh chó

     Chú bác đến nhà chớ mắng con.

-        Của do mình làm ra tựa nước mạch

     Của cha mẹ để lại tựa như của trôi sông.

-        Chồng làm nên ông, nên quan

     Bởi vợ khôn ngoan, hiền lành.

-        Nuôi em khó chiều tính

      Nuôi con khó chiều lòng

-         Chồng tốt như lạt buộc nhiều vòng

      Chồng hư như tổ ong buộc cổ

-         Chiều chồng không dệt được vải

      Chiều con không có ăn

-          Cây gãy còn gốc

            Thuyền vỡ còn mái chèo

             Cha chết còn chú còn bác

 

Truyện thơ

Ở Hoà Bình, truyền thống thơ ca của người Mường, người Thái là nổi bật nhất. Điều này thể hiện rõ nhất ở những áng sử thi dài hàng ngàn câu. Chủ đề chính ở các tác phẩm truyện thơ là tình yêu nam nữ với những mối tình say đắm của những đôi trai, gái do hoàn cảnh mà trở thành những bi kịch của cuộc đời. Chính nỗi đau thương, day dứt của sự tan vỡ, mất mát, thất vọng về tình cảm ấy lại trở thành nguồn cảm hứng cho các nghệ sỹ dân gian sáng tác ra những truyện thơ nổi tiếng như Nàng Nga- Hai Mối, Út Lót- Hồ Liêu, Vườn hoa núi cối… Tất cả những truyện thơ này đều là chuyện về tình yêu nam nữ với chủ đề lên án chế độ hôn nhân cưỡng ép của chế độ gia đình phụ quyền rất rõ rệt… Các truyện đều có cái kết dữ dội bằng những cái chết đau xót của các nhân vật chính và phụ.

Tuy chủ đề tình yêu là cối lõi của tất cả các truyện, song trên cái nền ấy là cả một bức tranh sinh hoạt văn hoá vô cùng đa dạng và phong phú của chủ nhân sinh ra nó. Chỉ cần điểm qua vài nét chính trong truyện Nàng Nga- Hai Mốt ta sẽ thấy rất rõ điều ấy. Đây là quang cảnh ngày mở chợ:

Ngày mở chợ

Ba hồi trống đánh

Hết làng trên xóm dưới

Con trai đầy sân,

Con gái đến đầy cửa đầy nhà

Cơm trong mồm chưa kịp nhá

Cá trong mồm chưa kịp nuốt

Trầu trong khăn chưa kịp lấy,

Chín mươi làng trên

Đều mang bương gianh ra mở chợ.

Trong bối cảnh hết sức tưng bừng, sôi động ấy, tình yêu trai gái nảy nở một cách tự nhiên, tự do để rồi thề ước với nhau một niềm chung thuỷ son sắt:

Nếu sai hẹn ước

Sẽ chết nơi sông Chu bến Động.

Nhưng:

Mẹ nàng tham bạc

Chú bác họ hàng đã tham ăn tham uống

Đã gả nàng cho ông vua Ai Ước.

Quang cảnh đánh giặc của chàng Hai Mối:

Giặc bên Bắc đang muốn tiến vào

Giặc bên Lào, bên Ngô đang thì tiến xuống

Ta phải cất công sang sông Chu, bến Động

Trên bờ cắm chông

Dưới sông thả cạm, thả bẫy.

Cuộc kiếm tìm người yêu không ngại ngần gian khổ:

Chàng lại ra đi

Hết rừng trúc qua rừng mai

Tìm đến chùa Thái Thúc xin Bụt phù hộ

Rồi chàng lại ra đi bốn đêm trắng

Bảy ngày liền

Chẳng thấy đâu là làng là xóm

Chỉ thấy ngàn cây bát ngát xanh xanh.

Cuối cùng là sự tuyệt vọng tìm đến cái chết mà chưa gặp được người mình yêu. Còn nàng, đến khi gặp chỉ còn là một cuộc làm ma cho người yêu. Do vậy, để trọn tình, nàng cũng quyết quyên sinh:

Hỡi hồn anh ở dưới đất thì lên

Hỡi hồn anh ở trên trời thì xuống

Hỡi hồn anh ở sông Chu bến Động thì vào.

Sống ta không nên cửa nên nhà

Đợi em chết xuống làm nhà bên ma.

Khấn xong, nàng cởi chiếc áo đang mặc

Cầm cái gương, cái lược đang cài

Là vật kỷ niệm ngày trước

Lao đầu xuống sông Chu, bến Động

Để về cùng chàng Hai Mốt.

(Bản sưu tầm của Đinh Công Niết)

Tương tự như vậy, trong truyện Út Lót- Hồ Liêu, chàng Hồ Liêu mở nắp quan tài đón nàng Út Lót vào cùng chết và những truyện thơ khác đều có kết cục bi kịch như vậy.

Rõ ràng, truyện thơ không chỉ kể về các mối tình tuyệt vọng của các đôi trai gái, mà đã được nâng lên thành những vấn đề xã hội, thể hiện khát vọng hôn nhân tự do, khát vọng đôi lứa, vượt ra khỏi những ràng buộc khắt khe của gia đình, của phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo… Truyện thơ của người Mường được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành những áng văn bất hủ.

Ở người Thái, những tác phẩm nổi tiếng như Xống chụ xôn xao hay Khum Lú- Nàng Ủa được phổ biến ở hầu hết các vùng Thái. Đó là những truyện thơ dài mang đậm chất dân ca Thái, hàm chứa những tâm tư, tình cảm, nỗi lòng thầm kín của tình yêu đôi lứa, đồng thời cũng bày tỏ những khắc khoải của sự mất mát, chia lìa. Từ chỗ:

Anh đến thăm, em thương nghĩa,

Anh đến thăm, em thương tình,

Như thể cá chép ở chung khoang

Như thể rượu nếp ở chung vò

Thương nhau đã quyết nên bạn

Yêu nhau đã quyết nên tình

Lời tình trao, thề có trời có đất…

Vậy mà:

Lòng anh chết đi sống lại nhiều lần

Bởi anh thấy khách mường ngoài

Đem lễ vật đến hỏi em yêu

Khách đến hỏi, bố mẹ em ưng gả

Khách đến nhà, bố mẹ em nhận lời.

Những truyện thơ dài của người Thái, người Mường rõ ràng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của các thế hệ. Được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, truyện thơ dài là một giá trị văn hoá của dân tộc cần được giữ gìn, bảo vệ. Đồng thời, nó cũng được lưu truyền như một bài học kinh nghiệm về những kỷ niệm đau buồn đã qua, một sự nhắc nhở, sám hối, an ủi, chia sẻ đối với những bất hạnh của người đi trước thiếu may mắn. Cứ tưởng tượng giữa trùng điệp của núi rừng bạt ngàn xưa, những truyện thơ ấy được kể bằng những lời trầm bổng của người dẫn chuyện, chúng ta sẽ thấy một khung cảnh đầy thơ mộng và lãng mạn thế nào. Điều này cho thấy, vượt lên những bi kịch, những nỗi buồn sâu xa là một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú của những con người vùng sơn cước này.

Ở người Dao, người Mông, người Tày Hoà Bình tuy không thấy những tác phẩm truyện thơ dài hơi, song hình thức này cũng tồn tại ở những truyện ngắn hơn với các chủ đề khác nhau.  

Sử thi

 

Dưới dạng những truyện thơ dài, song tầm vóc của sử thi là những áng thơ văn bất hủ của người Mường và người Thái với các tác phẩm như Đẻ đất đẻ nước của người mường và Ẳm Ệt của người Thái.

Đẻ đất đẻ nước là một bộ sử thi đồ sộ dài hàng ngàn câu. Nội dung của nó là toàn bộ tư duy cổ của người Mường về sự sinh thành ra vũ trụ, ra con người và vạn vật xung quanh nó. Bộ sử thi này chứa đựng cả một kho tri thức về văn hóa truyền thống của người Mường trong quá khứ.

Theo những công bố mới nhất của các tác giả Trương Sỹ Hùng, Bùi Thiện vào năm 1995 thì Đẻ đất đẻ nước (với ý nghĩa là toàn bộ tang ca) dài tới 61 roóng, mỗi roóng là một truyện về một vấn đề nào đó. Ví dụ như Đẻ gươm, Đẻ xống áo, Điềm gở, Nhòm Mường Bi… Tất cả những roóng ấy được kể trong 12 đêm, thậm chí còn dai hơn mới hết. Sử thi Đẻ đất đẻ nước được kể khi người Mường làm ma cho người chết nhằm giải thích và dẫn dắt hồn người chết, an ủi, vỗ về họ yên tâm về thế giới bên kia, đừng gây chuyện gì cho những người sống. Vì vậy, các nhà nghiên cứu còn gọi Đẻ đất đẻ nước là tang ca của người Mường. Tang ca này được một ông thầy mo trình bày.

Thực ra, đúng như Từ Chi viết: riêng phần “Đẻ đất đẻ nước” dù dưới dạng dị bản dàn trải nhất cũng chỉ chiếm một đêm trong số mười hai đêm kể của thầy mo về toàn bộ tác phẩm. Công trình nghiên cứu gần đây nhất về tác phẩm đẻ đất đẻ nước do Quỹ Toyota tài trợ được lấy tên chung hơn là Mo Mường, ngoài phần nghiên cứu, các tác giả chia Mo mường thành 9 phần từ khởi đầu đến kết thúc với độ dài hơn 400 trang (phần tác phẩm). Có thể nói, sử thi Mo Mường là tác phẩm đồ sộ nhất của văn học dân gian Mường. Không những vậy, nó còn là một kho kiến thức nhiều vấn đề văn hóa, xã hội khác của người Mường ở Hòa Bình. Không phải ngẫu nhiên mà áng sử thi này lại được trình bày ở đám tang. Những lời kể không chỉ là sự vỗ về, an ủi, chia ly với người chết mà điều quan trọng hơn đây là dịp người sống cùng tụ họp lại ôn lại lịch sử của cha ông mình, cho các lớp trẻ biết mình sinh ra từ đâu nguồn gốc ra sao và phải làm gì để tiếp tục những cái mà người đi trước đã làm.

Rõ ràng đám tang trở thành một cuộc sinh hoạt cộng đồng trước cái chết của một thành viên của cộng đồng. Đây là dịp cả cộng đồng cùng thắt chặt lại bên nhau để vươn lên tồn tại và phát triển trước những thử thách đang đợi họ. Sử thi Mường như một sợi dây vô hình nhưng hết sức bền chặt và mạnh mẽ xâu chuỗi, gắn kết từng thành viên lại với nhau trong cộng đồng. Vòng quay ấy cứ vận động liên tục làm cho cộng đồng ngày một vững chắc hơn.

Sử thi người Thái có Ẳm Ệt. Về quy mô và tầm vóc thì Ẳm Ệt của người Thái cũng là một bộ sử thi lớn nói về toàn bộ lịch sử xã hội, những mối quan hệ của con người với tự nhiên, sự hình thành vũ trụ và con người theo quan niệm của người Thái.. Giá trị nội dung và ý nghĩa xã hội của Ẳm Ệt của người Thái giống như Đẻ đất đẻ nước của người Mường: Ẳm Ệt chứa đựng cả vốn văn hóa dân gian của dân tộc bao gồm các triết lý dân gian, những nhận thức đơn giản về vũ trụ, nhân sinh quan, thế giới quan, dưới hình thức diễn xướng, diễn xuất có hóa trang, lời diễn xuất có âm điệu, có dàn nhạc phụ họa.”

Ngoài những áng sử thi được kể dưới hình thức mo, còn nhiều bài mo khác của cả người Mường, người Thái và một số dân tộc khác ở Hòa Bình có giá trị như truyện dài. Những bài mo đó có thể là những bài cúng hay kể chuyện, độ dài có thể lên tới hàng trăm câu hoặc vài chục câu. Như vậy, những bài mo này có giá trị như những truyện thơ. Mặt khác, những bài mo đó có nhiều chủ đề khác nhau như mo thành hoàng, mo cúng đức thánh Tản, mo khuống mùa…