K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 9

Bài thơ “Ta đi tới” của Tố Hữu được sáng tác vào tháng 5 năm 1954, ngay sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Trong bài thơ, hình tượng “ta” không chỉ là cái tôi trữ tình của nhà thơ mà còn là tiếng nói của cả dân tộc Việt Nam anh hùng, biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và khát vọng lớn lao của nhân dân. Tác phẩm thể hiện khí thế hào hùng, niềm tự hào dân tộc và niềm tin sắt đá vào tương lai tươi sáng của đất nước sau khi giành thắng lợi vĩ đại. Với nhịp thơ dồn dập, giọng điệu hào sảng, khỏe khoắn như bước chân hành quân và tiếng kèn chiến thắng, bài thơ vang lên như một khúc ca khải hoàn của dân tộc, khẳng định sức mạnh và con đường tất thắng của cách mạng Việt Nam. Đối với thế hệ trẻ hôm nay, “Ta đi tới” gợi nhắc niềm tự hào, lòng biết ơn sâu sắc với cha ông, đồng thời khơi dậy ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn độc lập, phát huy truyền thống bất khuất và quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.


1. Hoàn cảnh sáng tác

- Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ nhưng Bác vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.

2. Thể thơ

- Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

Bà làm

Bài thơ " Tức cảnh pác pó " được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật.

Vì thất ngôn là 7 chữ. Tứ tuyệt là 4 câu.

Nên thất ngôn tứ tuyệt là thơ 7 chữ 4 câu.

9 tháng 5 2017

Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.

Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.

Ngày 5-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927).

Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.

Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).

Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.

Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

Bài thơ được viết vào tháng 2/1941 tại hang Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhan đề bài thơ: Tức cảnh là ngắm cảnh mà có cảm xúc, nảy ra tứ thơ, lời thơ. Tức cảnh sinh tình là ngắm cảnh mà có cảm xúc muốn làm thơ. Bài thơ được viết theo thể thơ truyền thống: Thất ngôn tứ tuyệt. Kết cấu: Ba câu đầu là tả cảch sinh hoạt vật chất của Bác ở Pác Bó. Câu kết phát biểu cảm xúc và suy nghĩ của Người.

Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ: ở trong hang Pác Bó - một hang núi nhỏ thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng; với những sinh hoạt hằng ngày rất đạm bạc. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.

Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Khuyến:Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời cận đại, nổi tiếng với những bài thơ trào phúng sâu sắc và phong cảnh làng quê thanh bình. Ông tên thật là Nguyễn Thắng Đạm hay còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đỗ, sinh năm 1835, mất năm 1909, quê ở làng Vị Khê, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà...
Đọc tiếp

Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Khuyến:

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời cận đại, nổi tiếng với những bài thơ trào phúng sâu sắc và phong cảnh làng quê thanh bình. Ông tên thật là Nguyễn Thắng Đạm hay còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đỗ, sinh năm 1835, mất năm 1909, quê ở làng Vị Khê, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn, nhưng sau đó cáo quan về quê sống ẩn dật.


Vị trí của Nguyễn Khuyến trong nền văn học Việt Nam là vô cùng quan trọng. Ông được xem là “Ông nghè làng Ta” (nghĩa là nhà thơ từng đỗ tiến sĩ và có ảnh hưởng lớn), là người kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ Nôm. Thơ của ông mang đậm tính dân tộc, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và con người sâu sắc. Ông cũng là người mở đường cho trào lưu thơ ca hiện thực phê phán sau này.


Đề tài sáng tác của Nguyễn Khuyến rất phong phú, bao gồm:


• Trào phúng, châm biếm: Ông phê phán sự thối nát, suy đồi của xã hội thực dân phong kiến, bộ máy quan lại tham nhũng, thói hư tật xấu của con người thời bấy giờ.

• Cảnh sắc quê hương, non sông: Ông vẽ nên những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thanh bình, gợi lên tình yêu tha thiết với quê hương, đất nước.

• Tâm sự, thế sự: Thơ ông còn thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời, về lẽ sống của con người.


Phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến được đánh giá là độc đáo và có ảnh hưởng sâu rộng:


• Ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu tính tạo hình: Ông sử dụng ngôn ngữ dân dã, gần gũi với đời sống nhưng lại vô cùng trau chuốt, giàu hình ảnh, nhạc điệu

•Giọng thơ của ông đa dạng:lúc thì hóm hỉnh châm biếm,lúc thì trữ tình sâu lặng

Ông có các tác phẩm chính bao gồm các tập thơ chữ Hán và Nôm như Quế Sơn thi tậpYên Đổ thi tậpBách Liêu thi văn tập, cùng các bài thơ Nôm tiêu biểu như Bạn đến chơi nhàThu VịnhThu ẨmThu Điếu, và nhiều bài văn tế, câu đối, hát ả đào. Tác phẩm của ông thường đề cập đến tình yêu quê hương, thiên nhiên, và cuộc sống của người dân. 

0
10 giờ trước (22:14)

Làm giúp nì,tick cho tui nhe:

Bài thơ Mẹ tôi của tác giả Từ Dạ Linh đã để lại trong em một ấn tượng sâu sắc về tình cảm thiêng liêng và sự hy sinh vô bờ của mẹ. Qua từng câu chữ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh người mẹ với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhưng lại vô cùng vĩ đại. Những hình ảnh của mẹ trong bài thơ như "mẹ là ngọn lửa cháy âm thầm" hay "mẹ là mảnh đất quê hương" khiến em cảm nhận rõ ràng sự nuôi dưỡng và bảo vệ vô điều kiện mà mẹ dành cho con cái. Mẹ không chỉ là người sinh thành, mà còn là người truyền cảm hứng, là nơi con tìm về khi mệt mỏi hay lạc lối. Cảm xúc trong bài thơ nhẹ nhàng nhưng đầy chất chứa, như một lời nhắc nhở về lòng biết ơn, sự kính trọng đối với những hy sinh thầm lặng của mẹ. Em thấy mình như được gợi nhắc lại những kỷ niệm bên mẹ, càng thêm trân quý những gì mẹ đã làm cho mình. Mẹ là tất cả, là niềm tin và là nguồn động lực vô giá trong cuộc đời mỗi người.

10 giờ trước (22:16)
Bài thơ "Mẹ tôi" của Từ Dạ Linh khắc họa chân dung người mẹ vĩ đại, hi sinh, chịu đựng gian khổ vì con, với tình thương bao la, tha thiết được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ sâu sắc và giọng điệu mộc mạc, xót xa. Đọc bài thơ, ta thấu hiểu sự hy sinh thầm lặng của mẹ, thấy mình cần biết ơn và trân trọng mẹ hơn, đồng thời nhận ra tình yêu thương của mẹ là món quà quý giá nhất mà cuộc sống ban tặng.  Cảm xúc về hình ảnh người mẹ
  • Biểu tượng của sự hi sinh:  Tác giả khắc họa mẹ là người chịu đựng "đắng cay ngang trái", giấu đi "đớn đau" để dành cho con sự sống và che chở, dõi theo con suốt cuộc đời. 
  • Biểu hiện của tình thương:  Tình mẹ được thể hiện qua những hành động cụ thể như chăm sóc con, là chỗ dựa tinh thần, hay qua nỗi mong nhớ con da diết trong câu hát ru "À ơi... Sáng trông/Trưa đợi/Tối chờ". 
  • Sự lớn lao, vĩ đại:  Dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, mẹ vẫn là người vĩ đại và thiêng liêng nhất, là nguồn sức mạnh, tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. 
Cảm xúc về nghệ thuật và giọng điệu 
  • Giọng điệu mộc mạc, tha thiết:  Tác giả sử dụng giọng điệu chân thành, giản dị, kết hợp với hình ảnh ẩn dụ và so sánh độc đáo, tạo nên sức lay động mạnh mẽ.
  • Lời ru quen thuộc:  Câu hát ru "À ơi..." mang âm hưởng của quê hương, làm cho bài thơ trở thành một khúc hát tri ân bất tận, gợi cảm xúc sâu lắng.
Suy ngẫm và bài học
  • Lòng biết ơn sâu nặng:  Bài thơ khơi gợi trong em niềm xúc động, biết ơn sâu sắc đối với tình mẹ, hiểu được giá trị của những hy sinh thầm lặng mà mẹ dành cho con. 
  • Trân trọng phút giây bên mẹ:  Tác giả muốn gửi gắm thông điệp hãy trân trọng những khoảnh khắc được ở bên cạnh mẹ, yêu thương và đền đáp công ơn của mẹ. 
  • Tình yêu thương là hạnh phúc:  Tình yêu thương của cha mẹ là món quà vô giá, giúp ta vững bước trên đường đời. 
Tóm lại, "Mẹ tôi" là bài thơ mang đến những xúc cảm sâu sắc về tình mẫu tử, làm người đọc thêm yêu quý và trân trọng mẹ hơn. 
11 tháng 8 2019

Tham Khảo

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong lòng người những xao xuyến sau bao năm xa quê hương
Bác của chúng ta, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, chịu biết bao nhiêu khổ cực, vượt qua bao nhiêu khó khăn, thì năm 1941, ước nguyện được trở về quê hương của Người cũng đã trở thành hiện thực. Bên cột móc 108 biên giới Việt Trung, Bác lặng người ngắm nhìn núi rừng Cao Bằng - mảnh đất địa đầu đất nước. Người cúi xuống hôn lên nắm đất Tổ quốc mà đôi mắt rưng rưng.Cùng được sinh ra trong bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân, đồng bào Việt Nam, nhân dân Việt Nam từ xưa vốn đã là con một nhà, mang trong mình tình yêu nước thiêng liêng và sâu sắc, và đó cũng chính là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Lòng yêu nước đó càng chói ngời qua tấm gương của Bác – cả cuộc đời theo đuổi lý tưởng tự do và ấm no cho nhân dân, bình yên và giàu đẹp cho Tổ quốc, như Bác đã từng nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”.Năm 1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước, hành trang Bác mang theo là đôi bàn tay, sự chịu khó và nặng hơn hết là ý chí cứu nước mãnh liệt. Người bôn ba khắp năm châu bốn bể, làm biết bao nhiêu công việc cực nhọc như làm bồi bàn, lao công quét tuyết, phụ bếp cho khách sạn…nhưng người chưa bao giờ lung lay ý chí, chưa bao giờ thôi nghĩ đến vận mệnh của đất nước. Sống trong cảnh lầm than, thấu hiểu nỗi đau mất nước, cảm nhận sâu sắc sự bất hạnh của kiếp nô lệ, tất cả là động lực bên trong thôi thúc Bác tìm đến lý tưởng cách mạng nhân đạo và khoa học của Mác – Lênin.Tình yêu nước nồng cháy là thế, lòng yêu thương đồng bào dân tộc tha thiết là thế, vậy mà Người phải cách xa biền biệt 30 năm trời để đi tìm con đường giải phóng dân tộc, ta có thể hiểu được tâm trạng bồi hồi, niềm xúc động của Người sau ngần ấy năm trời khổ ái mới được đặt chân về với đất mẹ. Phút giây được đặt chân lên tấc đất đầu tiên của Tổ quốc là giây phút thiêng liêng không diễn tả thành lời. Sau này Người từng kể lại răng: “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động”. Trở về đất nước đúng dịp xuân về, cả đất trời và lòng người đều rạo rực, trong lòng Bác càng trào dâng niềm hân hoan, hạnh phúc. Hình ảnh của Bác thật giản dị, gần gũi nhưng lại cao lớn lồng lộng. Lúc ấy Bác mặc trang phục của người Nùng (một dân tộc sinh sống ở Cao Bằng), quần áo chàm, đầu thì đội mũ may bằng vải màu chàm, chân đi đôi giày vải đen, quàng khăn vừa che kín râu. Hành lý mà Bác mang theo chỉ vẻn vẹn có một chiếc vali bằng mây nhỏ cũ kỹ đựng quần áo và chiếc máy đánh chữ xách tay. Hỏi trên thế giới có được mấy vị chủ tịch nước bình dị, đơn sơ như Hồ Chủ Tịch. Điều đó càng làm cho mỗi người dân Việt Nam ta càng yêu quý, kính trọng Người. Bác đã hy sinh tất cả cho ấm no, tự do của Tổ quốc. Để rồi sau cái “sáng xuân bốn mốt” đó, cái sáng chấm dứt ba mươi năm bôn ba khắp năm châu, bốn bể tìm đường cứu nước đó, Người đã trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cùng Đảng ta đem lại những mùa xuân cho dân tộc, chấm dứt trăm năm nô lệ tăm tối.
Bác sẽ sống mãi trong lòng người dân Việt Nam như người Cha, người Mẹ của bao thế hệ!!!

10 tháng 11 2016

Bước vào khung cảnh mùa đông VB, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, Nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.

Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
 

” Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
(Theo chân Bác – Tố Hữu )


Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.

Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của TH. Đọc câu thơ lên ta co thế cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng VB. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khuơng Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.

Chúc bạn học tốt!