Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 - 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.
Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 - 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.
*Giải phóng Nghệ An (năm 1424)
Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận, ngày 12- 10 - 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công đồn Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hoá), sau đó hạ thành Trà Lân. Trên đà thắng lợi đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.
* Giải phóng Tản Bình, Thuận Hoá (năm 1425)
Tháng 8 - 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá. Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân. Quán Minh chỉ còn mấy thành luỹ bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm.
* Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426)
- Tháng 9-1426, nghĩa quân chia làm ba đạo tiến ra Bắc : Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam (Trung Quốc) sang. Đạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An vào Đông Quan. Đạo thứ ba. tiến thẳng vào Đông Quan.
Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ về mọi mặt, chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ. Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công.
* Trận Tốt Động — Chúc Động (cuối năm 1426)
Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn. Để giành thế chủ động, ngày 7-11-1436, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ, Hà Nội). Biết trước âm mưu của giặc, quân ta phục kích ờ Tốt Động - Chúc Động. Kết quả, 5 vạn tên giặc bị thương, bị bắt sống trên 1 vạn ; Vương Thông bị thương, tháo chạy về Đông Quan. Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện.
TRậnChilăng-Xươngggiang
Tháng 10/1427 15 vạn viện binh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy chia làm 2 đạo tiến vào nước ta. Đạo 1: gồm 10 vạn do Liễu Thăng chỉ huy tiến vào Lạng Sơn Đạo 2: Do Mộc Thạnh chỉ huy vào Hà Giang - Ngày 8/10/1427 Liễu Thăng bị ta phục kích ở Chi Lăng - Lương Minh dẫn quân xuống Xương Giang bị ta phục kích ở Cần Trạm, Phố Cát. - Hàng vạn tên địch bị giết, Mộc Thạnh chạy về nước . Vương Thông chấp nhận mở hội thề Đông Quan (10/12/1427) cuộc chiến tranh kết thúc..
1. Kiều Thuận, đại bản doanh tại Hồi Hồ.
2. Kiều Công Hãn, căn cứ tại Phong Châu.
3. Đường Lâm có Ngô Nhật Khánh.
4. Tam Đái có Nguyễn Khoang
5. Đỗ Đông Giang có Đỗ Cảnh Thạc đóng quân.
6. Tây Phù Liệt là bản doanh của Nguyễn Siêu.
7. Tế Giang thuộc quyền sở hữu của Lữ Đường.
8. Siêu Loại có Ký Khuê.
9. Tiên Du có Nguyễn Thủ Tiệp.
10. Phạm Bạch Hổ đóng quân ở Đằng Châu.
11. Bố Khải Hậu của Trần Lãm (Có tướng là Đinh Bộ Lĩnh).
12. Ở Bình Kiều có Ngô Xương Xí (con của vua Nam Tấn Vương)
Xương Xí, Tam Đái........ :)))))
toàn liên quan đến nhà vệ sinh -.-
❖︵ℭá❍ღɕɑლ¡ղɕ࿐ mk chỉ hỏi thôi chứ có học theo gì đâu, thấy bn kia ko trl bn nên mk hỏi thôi
1.Nhà Đinh xây dựng đất nước : ( 968 - 980 )
- Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế -Đinh Tiên Hoàng-, đặt tên hước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, đặt niên hiệu là Thái Bình,cho đúc tiền riêng, phong tước cho các con, và quan hệ bình thường với nhà Tống.
- Cử các tướng thân cận nắm chức vụ chủ chốt.
- Dựng cung điện, đúc tiền , xử phạt nghiêm với kẻ phạm tội.
(Đinh Bộ Lĩnh là người Việt đầu tiên xưng đế, chứng tỏ độc lập hoàn toàn là 1 nước lớn mạnh, tự hào ngang hàng với Nhà Tống, không là nước phụ thuộc)
* Sự thành lập nhà Lê :
- Đinh Tiên Hoàng bị giết chết (979).
- Vua Đinh Toàn mới 6 tuổi.
- Nhà Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, nên Thái Hậu Dương Vân Nga đưa Lê Hoàn lên ngôi vua năm 981 để chỉ huy kháng chiến (Thái hậu Dương Vân Nga nhường ngôi cho Lê Hoàn là đúng, biết hy sinh quyền lợi của dòng họ để bảo vệ dân tộc)
- Lê Hoàn lên ngôi vua-Lê Đại Hành, đổi niên hiệu là Thiên Phúc ( gọi là Tiền Lê )
- Vua nắm mọi quyền hành về quân sư và dân sự .
- Giúp vua có quan Thái Sư, Đại sư ; bộ máy quan lại gồm ban văn, võ ,tăng .
- Con vua được phong vương nắm giữ vùng biên giới .(đây là chế độ quân chủ tập trung còn sơ sài)
- Cả nước chia làm 10 lộ, dưới lộ có phủ và châu,
* Quân đội: gồm 10 đạo , 2 bộ phận :
+Quân Điện Tiền(Cấm quân ): bảo vệ nhà Vua và kinh thành.
+Quân địa phương đóng tại các lộ , thay phiên nhau luyện tập và sản xuất.
Vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước trung ương thời Tiền Lê
Cho nhận xét về bộ máy nhà nước ? So sánh với nhà Đinh ?( chế độ quân chủ tập trung , còn sơ sài , hòan thiện hơn nhà Đinh : vua nắm mọi quyền hành, giúp vua có Thái sư, Đại sư , dưới là quan văn , võ, tăng …)
?????
bt à mk gửi link cho