Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều:
- Truyện Kiều ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người (vẻ đẹp ngoại hình, đức hạnh, tài năng)
+ Truyện Kiều là tiếng nói thương cảm, tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người
+ Tác giả khóc thương cho Thúy Kiều chính là khóc cho nỗi đau lớn nhất của con người: tình yêu tan vỡ, gia đình tan vỡ, nhân phẩm bị chà đạp…
+ Truyện Kiều đề cao con người ở vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, khát vọng chân chính
- Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy
- Thể hiện giấc mơ về công lý qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng “đội trời đạp đất”, làm chủ cuộc đời, thực thi công lý
HS cần triển khai được một số ý:
Tinh thần nhân đạo được thể hiện trong Truyện Kiều
- Khẳng định đề cao con người: vẻ đẹp ngoại hình, phẩm chất, tài năng
- Lên án tố cáo những thế lực tàn bạo càh đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người
- Thương cảm đồng cảm trước những đau khổ, bi kịch của con người, đặc biệt là người phụ nữ
- Đề cao tấm lòng bao dung, nhân hậu và ước mơ công lí, chính nghĩa
- Giống nhau: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Phong lưu rất mực hồng quần/ Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
- Khác nhau:
• Thúy Vân: trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da…
• Thúy Kiều: sắc sảo mặn mà/ So bề tài sắc lại là phần hơn - Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
- Quan niệm của tác giả Nguyễn Du về mối quan hệ giữa nhan sắc, tài năng và số phận.
• Vẻ đẹp sắc sảo, lôi cuốn, tài năng hơn người → bị đố kị, ghen ghét, số phận long đong.
- Quan niệm này xuất phát từ cơ sở tâm lí - xã hội cụ thể.
*Vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
+Khuôn trăng đầy đặn : khuôn mặt tròn trĩnh , phúc hậu
+Nét ngài nở nang : lông mày đậm
+Hoa cười ngọc thốt : nụ cười tươi tắn như hoa , giọng nói trong trẻo như ngọc
+Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da : Nước tóc đẹp hơn mây , da trắng hơn tuyết
=> Bằng bút pháp ước lệ ,liệt kê , ẩn dụ cùng với các từ ngữ miêu tả vô cùng đặc sắc , tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp nhẹ nhàng,thùy mị , đoan trang , phúc hậu , quý phái của Thúy Vân :'' khuôn mặt của Thúy Vân tròn trĩnh , phúc hậu , nụ cười của nàng thì tươi như hoa , giọng nói của nàng trong trẻo như ngọc ,lông mày hình cánh cung nở nang , viên mãn ,nước tóc đẹp hơn mây làn da trắng như tuyết.''Đồng thời , tính từ ''thua , nhường'' dự báo một tương lai êm đềm , suôn sẻ .
*Vẻ đẹp của Thúy Kiều :
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.”
+ Tác giả miêu tả khái quát Kiều : ''sắc sảo về trí tuệ , mặn mà về tài năng , tâm hồn'' ( sắc sảo mặn mà)
+Đôi mắt : trong như nước mùa thu.
+Lông mày : thanh tú , đẹp như nét núi mùa xuân.
+Dùng điền cố ''Nghiêng nước nghiêng thành'' nhằm diễn tả vẻ đẹp hoàn hảo , đầy sức lôi cuốn mạnh mẽ của Kiều.
+Đặc biệt , tác giả Nguyễn Du còn gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều tuyệt đối đến mức thiên nhiên còn phải ''hờn,ghen'' Vẻ đẹp đó lại đối lập với Thúy Vân.Nếu Thúy Vân ''khiêm nhường'' thì ngược lại , Thúy Kiều lại khiến thiên nhiên phải ''hờn , ghen''.
+Chính tính từ ''hờn ,ghen'' đã dự báo số phận long đong , lận đận , bị vùi dập của Thúy Kiều
Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn.Đôi mắt của nàng Kiểu được miêu tả bằng hai hình ảnh ẩn dụ :Làn thủy tinh , nét xuân sơn
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu . Còn lông mày lại thanh nhẹ , tương đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng , duyên dáng .đây cũng là vẻ đẹp ước lệ , tượg trưng thường gặp trong thơ văn cổ . Những nghệ thuật nhân hóa , thậm xưng , so sánh , hoán dụ , ẩn dụ , điển cố ,liệt kê , đối ngữ , tương hỗ đã tiếp tục đưa sắc đẹp của Thúy kiều đến tuyệt điỉnh, khiến cho :
Hoa ghen thua thắm ,liễu hờn kém xanh
"Hoa " và "liễu" là những loài vô tri , vô giác , vậy là phải " ghen " , "hờn ", tức giận trước vẻ đẹp sắc sảo mạn mà ", " mười phân vẹn mười của naàng. Còn đối với con người , nàng kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái nữa thì nước người ta bị đổ . Chao ôi ! Thúy Kiều đúng là một tuyệt thế giai nhận
Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy ,đài các, kiêu sao , có sức cuốn hút mãnh liệt của Thúy Kiều . Nhất là các từ ghen " , "hờn ".Nếu như ở Thúy Vân, chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều ,vừa miêu tả nhan sắc , vừa ca ngợi tài năng :
sắc đành tài một , tại đành hoạ hai
Như vậy ,về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra , họa hoằn lắm mới có người thứ hai . Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng :
Thông minh vốn sẵn tính trời
Thứ nhì là tài thơ , vẽ , ca hát , đánh đàn , sáng tác nhạc :
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương .
Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy kiều vượt xa những người khác . Những nốt cung , thương , giốc , chũy , vũ trong âm giai của nạhc cổ trung Quốc và Việt Nam được nàng phối hợp một cách nhuần nhuyễn , tinh thông , dạt dào cảm xúc . Đặt biệt , một bản nhạc nhan đề là " Bạc mệnh " - đưa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu thẳm trong tâm hồn của con người , khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ , sầu não đến rơi nước mắt , đến buốt nhói tim . Phải chăng " một thiên bạc mệnh lại càng não nhân " ấy như muốn dư báo những đâu khổ , bất hạnh chồng chất trong suốt 15 năm ròng của đời người con gái tài sắc vạn toàn ?
Thúy vân , tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được nữa , để rồi sau đó , Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc đẹpcủa Thúy Kiều là tuyệt đỉnh . Còn tài của nàng cũng là tuyệt đỉnh . Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều , Nguyễn Du miêu tả cuộc sống phong lưu , êm đềm , khuôn phép , mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của cá hay chị em :
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê ,
Em đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm , có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều vẫn sống hòa thuận , vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che , không tơ tươởngđến những kẻ dđ tìm tình yêu , đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa . Chính những nét hồn nhiên , trong sáng . thơ ngây đã nuôi dưỡng , bồi đắp cho sự hình thành - phát triển nhân cách và ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này , đặc biệt là Thúy Kiều .
Đoạn thơ trích trong phần mở đầu của Truyện Kiều có thể nói là bức chân dung xinh xắn, đẹp đẽ của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung về hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy, hai cô con gái đầu lòng của nhà viên ngoại họ Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho ta thấy sắc đẹp hai chị em Thúy Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai như tuyết của thiên nhiên. Những người con gái vừa mới lớn dậy này đã được Nguyễn Du giới thiệu thật súc tích nhưng đầy trân trọng, mến thương:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong.
Sau lời giới thiệu chung là bức chân dung của nàng Vân. Tác giả vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với một hệ thống từ ngữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp theo như vẽ ra trước mắt ta hình ảnh người thiếu nữ trong sáng, ngây thơ, rất đỗi đoan trang, phúc hậu dễ hòa lẫn với chung quanh.
Đây là cái đẹp toàn bích của một người hiền dịu, trong sáng, vô tư, không gợn một nét nhỏ bụi trần từ “khuôn trăng', “nét ngài” cho đến nụ cười, giọng nói. Nhưng nhà họa sĩ hình như không phải dụng công nhiều trong miêu tả nhân vật này. Bút lực của ông còn dành cho nhân vật Thúy Kiều. Nhà thơ tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân chỉ là cái nền làm tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Chỉ hai câu:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Như là một phép đòn bẩy, nhà thơ đã nâng nhân vật chính lên một bậc cao hẳn cả tài lẫn sắc trước mắt người đọc. Đến đây, tác giả không dừng lại ở hình thức bên ngoài mà đi sâu vào tài năng, tính cách bên trong, vào sự "sắc sảo mặn mà", “một hai nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều.
Nếu ở nàng Vân, cái đẹp phúc hậu, đoan trang dễ chinh phục chung quanh:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
thì ở nàng Kiều, cái đẹp “sắc sảo mặn mà dễ gây tạo vật ghen tuông, hờn dỗi:
"Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".
Các cụ ta xưa đã nhận xét về cái đẹp của hai chị em Kiều, một người là “sắc trung chi hiền”, một người là “sắc trung chi thánh kể cũng đã chí lí lắm vậy.
Thực ra vẻ đẹp bên ngoài là điều đáng chú ý, song đáng quan tâm hơn vẫn là tài hoa và tính cách của nhân vật. Tác giả đã dùng nhiêu câu kiến trúc theo lối tiểu đối để cho tài và sắc của Thúy Kiều được giới thiệu đến mức độ tới hạn của nó:
Mai cốt cách/ tuyết tinh thần
Mây thua nước tóc/ tuyết nhường màu da
Làn thu thủy /nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm/ liễu hờn kém xanh
Sắc đành đòi một/tài đành họa hai.
Chưa hết, Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi nàng bằng một loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: “ Thông minh vốn sẵn tính trời”“Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm". "Cung thương lầu bậc ngũ âm, nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”'. Không một chữ đưa đẩy, các chữ, các hình ảnh được đối chọi với nhau và các từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, đã thực sự tạo nên nhịp thơ trang trọng, đĩnh đạc càng tôn thêm tài sắc của Thúy Kiều.
Bài làm
Trong đoạn trích "Chị Em Thúy Kiều" củ Nguyễn Du, Kiều hiện là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp của Kiều được tác giả sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ "thu thủy", "xuân sơn", hoa, liễu để miêu tả mộ tuyệt thế giai nhân. Vẻ đẹp ấy được đặc tả qua đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó là một đôi mắt biết nói và có sức rung cảm lòng người. Hình ảnh ước lệ "làn thu thủy" là làn nước mùa thu gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh và linh hoạt. Còn "nét xuân sơn" có nghĩa là nét núi mùa xuân, tôn lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ dừng lại ở đó, câu thơ "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" cũng là hình ảnh làm nổi bật vẻ đẹp mĩ lệ của Kiều, vẻ đẹp hoàn mĩ và sắc sảo ấy có sức quyến rũ lạ lùng, khiến cho thiên nhiên không thể dễ dàng chịu thua, chịu nhường mà phải nảy sinh lòng ghen ghét, đố kị. Đồng thời, qua chi tiết này, Nguyễn Du cũng ngầm báo hiệu số phận của Kiều sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Không chỉ mang một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa. Cái tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm, kì, thi họa. Đặc biệt nhất, tài đàn của nàng đã trở thành sở trường, năng khiếu vượt lên trên mọi người. Ở đây, tác giả đã đặc tả cái tài của Kiều để gợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn "bạc mệnh" mà Kiều tự sáng tác nghe thật da diết, buồn thương, nói lên tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, chỉ bằng mấy câu thơ trong đoạn trích, Nguyễn Du đã không chỉ miêu tả được vẻ đẹp hoàn mĩ và cái tài của Kiều mà còn dự báo trước được tương lai của nhân vật.
# Học tốt #
Bài làm
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã bị hắn lừa bán vào lầu xanh của Tú Bà, do kiên quyết không chấp nhận cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh, Tú Bà đã quyết định cho Thúy Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Thông qua câu thơ đầu tiên, ta có thể xác định được vị trí và điểm nhìn của nàng Kiều, đó chính là trước lầu Ngưng Bích, đứng trông ra núi non hùng vĩ, không gian mở đầy rộng lớn, mênh mông trái ngược hoàn toàn với lầu Ngưng Bích. “Khóa xuân” ở đây ta có thể hiểu đó là một không gian khép kín, nơi có thể buộc chặt tự do, khóa chặt tuổi xuân của nàng Kiều. Mở ra trước tầm mắt của Kiều là vẻ non xa tấm của ánh trăng gần ở chung. Cảnh vật như ẩn như hiện, như xa mà như gần, không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại hoang vắng, tịch mịch đến rợn người “Bốn bề bát ngát xa trông”.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Từ khi sống ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều luôn tự suy ngẫm, dằn vặt về bản thân cũng như đau khổ trước những biến cố đã xảy ra với bản thân mình, thường trực trong nàng là tâm trạng xấu hổ buồn tủi trước sự ô nhục mà bản thân đã trải qua, cùng với đó là nỗi nhớ nhung da diết với chàng Kim. Thúy Kiều nhớ về lời thề nguyền dưới ánh trăng năm nào. Khi quyết định phá vỡ lời thề, Thúy Kiều vẫn chưa có cơ hội gặp lại chàng Kim để nói lời từ biệt, do vậy mà nàng luôn đau đáu trong lòng sự day dứt, đau khổ khi nghĩ về chàng Kim vẫn không hề hay biết mà chờ đợi nàng trong vô vọng.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy năng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Cùng với nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ hướng về cha mẹ. Thúy Kiều đau xót khi nghĩ về cha mẹ đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn tựa cửa đợi con “Xót người tựa cửa hôm mai”. Nàng đau khổ khi không thể ở bên chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già, không thể thực hiện bổn phận, trách nhiệm của một người con, quạt cho cha mẹ khi trời nóng, hay sưởi ấm chăn cho cha mẹ khi trời trở lạnh. Hình ảnh Sân Lai là một điển tích trong văn học cổ Trung Quốc, nói về người con có hiểu là Lai Tử người nước Sở thời xuân thu, tuy đã già những vẫn còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ vui lòng. Mượn hình ảnh Lai Từ vừa thể hiện được sự day dứt của Thúy Kiều vừa thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Dù trong hoàn cảnh đau khổ nhất, Thúy Kiều cũng nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân mình. Đau khổ với những nỗi nhớ để khi quay về với thực tại thì nàng lại xót xa nhận ra sự bẽ bàng, đau khổ của bản thân. Như Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như đồng cảm với tâm trạng của nàng Kiều, cảnh vật cũng thấm đượm sự u buồn, không những thế nó còn dự báo về tương lai đầy bão tố của nàng trước mắt. Đó là hình ảnh ngọn nước mới xa, hình ảnh cánh hoa nổi trôi, là ngọn cỏ rầu rầu, là màu xanh của chân mây nhưng lại không gợi ra được sự sống.
Như vậy, qua đoạn trích Kiều ở lầu NGưng Bích ta có thể thấy được tài năng hơn người của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cùng với đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của ông.
# Học tốt #
Tham khảo:
Trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du, ta không chỉ thấy một nàng Kiều có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, mang vẻ đẹp tuyệt mĩ. Mà qua những câu thơ tài tình của tác giả ta còn thấy nàng là con người tài hoa, vẻ đẹp nội tâm phong phú, sâu sắc. Nguyễn Du đã dùng những câu thơ tuyệt bút nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh."
Dung mạo của nàng không được phác họa chi tiết, đầy đủ như Thúy Vân, nhưng chỉ qua đôi mắt tuyệt đẹp người đọc cũng đã có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của nàng. Ấy cũng chính là cái tài của Nguyễn Du. Tác giả tiếp tục sử dụng bút pháp ước lệ để miêu tả về vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, đôi mắt nàng mới đẹp làm sao, đó là một đôi mắt sáng, trong trẻo như làn nước mùa thu. Đôi lông mày mảnh, dài như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy còn gợi nên một thế giới nội tâm vô cùng đa dạng, phong phú, đó là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế.
Nàng đẹp hơn cả thiên nhiên, hơn cả tạo hóa, vẻ sắc sảo mặn mà ấy là “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Những từ ghen, hờn cho thấy thái độ tức tối, nổi giận của thiên nhiên. Từ đó cũng ngầm báo hiệu cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên của nàng sau này. Kiều không chỉ có nhan sắc tuyệt mĩ mà tài năng của nàng của vào bậc hiếm có xưa nay:
"Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm"
Tài năng của nàng đã đạt đến độ lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến “cầm, kì, thi, họa” đều đạt ở mức đỉnh cao. Trong những tài năng đó, xuất sắc nhất là tài đàn, nó đã trở thành sở trường đặc biệt của nàng, không ai có thể sánh kịp “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Tài năng của nàng này không được thể hiện ngay trong đoạn trích, nhưng ở phần khác đã được Nguyễn Du khẳng định: “Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”. Những khúc nhạc mà nàng sáng tác luôn mang một nỗi buồn khắc khoải, thê lương, gây nỗi thương cảm và xúc động lòng người.
Dường như ngay từ những khúc nhạc của một cô gái chưa vướng bụi trần, luôn được bao bọc, che chở nhưng lại gợi về nỗi sầu thê lương của những người phụ nữ bạc mệnh. Những khúc nhạc ấy cũng như là dự báo về chính cuộc đời của nàng. Ngẫm lại đời mình, trải qua nhiều chông gai, Kiều cũng tự nhận:
"Thưa rằng bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày con thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Và gương bạc mệnh bây giờ là đây"
Nguyễn Du đã thật ưu ái khi miêu tả chân dung Thúy Kiều. Nàng hiện lên qua những câu thơ của ông không chỉ đẹp đẽ ở nhan sắc mà còn toàn diện ở trí tuệ, tinh thần. Nàng là tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa, có nhan sắc, có trí tuệ nhưng lại chịu cảnh vùi dập của cuộc đời, của xã hội phong kiến. Thật cảm thương cho số phận của nàng, bởi vậy trong suốt cả bài thơ, hơn một lần Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Tố Hữu cũng xót thương cho đời nàng mà viết:
"Chạnh lòng thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên."
Bức tranh chân dung Thúy Kiều được dựng lên chủ yếu thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người. Nhưng vẻ đẹp của nàng còn vượt xa cả những chuẩn mực đó. Cho thấy vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa. Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm: ghen, hờn, sắc sảo, mặn mà,… góp phần làm nổi bật vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều.
Đoạn trích đã thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, khẳng định tài năng nghệ thuật tả người số một của ông quả là “kì tài diệu bút”. Tả Kiều không cốt tả hình dáng mà cốt để làm nổi bật vẻ đẹp và trí tuệ của nàng. Những câu thơ về Kiều còn mang tính chất dự báo về số phận éo le, một cuộc đời đầy trắc trở. Qua đó cũng thể hiện sự nâng niu trân trọng của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của người phụ nữ.
Tham khảo:
Mở bài phân tích nhân vật Thúy KiềuTrước khi đi vào phân tích nhân vật Thúy Kiều, chúng ta cần khái quát về tác giả Nguyễn Du. Nhà thơ Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiêụ Thanh Hiên. Ông sinh ra và được nuôi dưỡng trong một gia đình quan lại, có truyền thống khoa bảng ở Tiên Điền, Hà Tĩnh. Đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt, trong khi quê ngoại ông ở Bắc Ninh, cái nôi của văn hóa quan họ, nên ông sớm được tiếp xúc với nhiều vùng văn hóa, vốn sống và hiểu biết phong phú.
Tuy nhiên, ông lại lớn lên trong thời đạo loạn lạc, xã hội khủng hoảng, đất nước bị chia cắt hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài. Cùng với nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra tiêu biểu như khởi nghĩa Tây sơn, lập nên triều đình nhà Nguyễn. Cuộc đời trải qua nhiều phong ba bão táp, giú ông trau dồi được vốn sống và các nền văn hóa. Nhờ đó thơ ca ông cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc sống của chính ông.
Ông để lại cho đời nhiều kho tàng tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, tác phẩm Đoạn trường tân thanh viết về câu chuyện cuộc đời nàng Kiều là nổi tiếng hơn cả. Tác phẩm này không chỉ có sức ảnh hưởng lớn trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng và được biến tấu thành nhiều thể loại khác nhau như bói Kiều, lẩy Kiều…
Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Với 3254 câu thơ theo thể song thất lục bát, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp, cuộc đời hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều cũng như phản ánh bức tranh xã hội phong kiến đầy rầy bất công và thối nát.
Thân bài phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.Luận điểm 1: khái quát đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”Mỗi đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều đều mang một giá trị nội dung độc đáo riêng. Ví dụ như đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Đây là đoạn trích giới thiệu về vẻ đẹp và nhân phẩm của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
………………………….
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Trong đoạn trích này, đại thi hào Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều với vẻ đẹp nghiêm nước nghiên thành. Nàng không chỉ đẹp về vẻ ngoài mà còn đẹp bởi phậm hạnh, đạo đức. Một con người tài, hoa xinh đẹp như thế nhưng tiếc thương thay lại mang số phận bi đát.
Với tấm lòng yêu người sâu sắc, tác giả Nguyễn Du đã dành tặng Thúy Kiều những ca từ đẹp đẽ nhất. Đồng thời lên an sâu sắc xã hội phong kiến tàn bạo, bất công, chà đạp lên người phụ nữ, dồn họ vào con đường cùng không lối thoát.
Nhân vật Thúy Kiều lúc này còn là hiện thân vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Thúy Kiều mang vẻ đẹp toàn vẹn từ dung nhan đến đức hạnh cao quý.
Luận điểm 2: vẻ đẹp hoàn hảo xưa nay hiếm của Thúy KiềuPhân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích này, chúng ta nổi bật vẻ đẹp hình thể của nàng Kiều. Nguyễn Du miêu tả:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
……………….
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Trước khi đi vào khắc họa riêng vẻ đẹp của “hai ả tố nga”, thi hào Nguyễn Du đã gợi mở bằng hai câu thơ ước lệ thật tài tình. Ông ví cốt cách của hai chị em Thúy Kiều dịu dàng và căng tràn sức sống như những cây mai mùa xuân. Trong khi đó tinh thần yêu đời, tuổi trẻ của hai chị em tinh khiết, trong trắng như màu tuyết trắng. Thật là một vẻ đẹp khiến người nghe cũng phải hồn xiêu phách lạc. Đã thế, tác giả còn nói thêm, “mười phân vẹn mười”. Có nghĩa là không có gì để chê trách, vẻ đẹp ấy không thể bới lông tìm ra một dấu vết nào đen tối cả. Tất cả đẹp đến hoàn mỹ.
Nếu như bên trên, độc giả mường tượng ra một vẻ đẹp đoan trang tròn trịa của Thúy Vân, đến nỗi “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thì đến Thúy Kiều, lại là một vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà”. Một vẻ đẹp mà chứa đựng ở trong đó sự thông minh, lẫn tai năng ứng biến. Kiểu như chỉ cần Thúy Kiều nhìn thôi, ánh mắt cũng đủ hút hồn bao quan khách. Không dừng lại đó, nhà thơ Nguyễn Du tiếp tục phóng bút, nâng cấp vẻ đẹp của Thúy Kiều lên một tầm phi thường, có 1 – 0 – 2. Cả gương mặt của Thúy Kiều là kết tinh của vẻ đẹp của mùa thu lẫn mùa xuân. Đến nỗi “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Nếu như các hình ảnh thiên nhiên, như mây và tuyết chịu nhường và chịu thua trước vẻ đẹp của Thúy Vân thì đến Thúy Kiều, thiên nhiên không chỉ chịu thua mà còn phải cảm thấy ghen tị. Toàn con người Thúy Kiều toát lên sức sống tươi mới, căng tràn niềm hạnh phúc của thiếu nữ đến nỗi hoa và liễu, những thứ là đẹp nhất của đất trời cũng thấy thật hờn tủi vì thua kém.
Ngoài ra, thi hào Nguyễn Du còn sử dụng thành ngữ “Một hai nghiêng nước nghiêng thành” càng tôn thêm vẻ đẹp lồng lộn, đến mức quá hoàn hảo của Thúy Kiều và Thúy vân.
Có thể nói, qua với tài năng của mình, nhà thơ Nguyễn Du đã tạo nên một bức chân dung Thúy Kiều đẹp đến hoàn mỹ về vẽ bề ngoài. Mà có lẽ trên thế giới này, không còn ai có thể đẹp như Kiều.
Luận điểm 3: vẻ đẹp phẩm giá và tài năngPhân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều, độc giả không chỉ được ngắm nhìn một mỹ nhân có vẻ đẹp chim sa cá lặn mà còn là một người con gái tài đức vẹn toàn.
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Nàng Thúy Kiều có tài năng không chỉ giỏi đơn thuần, mà giỏi đạt đến mức hiếm có “Thông minh vốn sẵn tính trời”. Có nghĩa là Kiều có trí thông minh bẩm sinh. Từ khi trong bụng mẹ đã có được trời cho khả năng thiên bẩm. Không những thế, sau khi sinh ra, nàng cũng tự trau dồi thêm để cái vốn thông minh ấy ngày càng thăng hoa đạt đến đỉnh cao nhất. Theo quan niệm xưa, người phụ nữ phải “công, dung, ngôn, hạnh”. “Công” là tiêu chuẩn đầu tiên đánh giá một người phụ nữ giỏi giang gồm đủ các món nghề như “cầm, kỳ, thi, họa”. Và ở đây, thi hào Nguyễn Du đã phác họa chân dung nàng Kiều với đầy đủ các món ấy “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”.
Đặc biệt, nàng Thúy Kiều còn có tài đàn hát rất giỏi, đến nỗi, Nguyễn Du phải thốt lên: “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Thúy Kiều không chỉ có tài năng bẩm sinh mà nàng còn là một người con gái chăm chỉ, có khát vọng sống và luôn muốn hoàn thiện mình. Nàng không tự biết bản thân đẹp nên thường xuyên trau đồi đức độ, tài năng để xứng đáng với vẻ đẹp trời phú cho đó. Bởi vậy, nàng không chỉ chăm chỉ học vẽ, chơi cờ, làm thơ, hát, đánh đàn, thêu thùa… mà còn chinh phục chúng để trở thành một người tải giỏi nhất, không có thể sánh bằng.
Có thể nói, ở Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh về người con gái thời phong kiến tuyệt sắc gia nhân và tài đức vẹn toàn. Thế nhưng, chính điều đó lại là điều chẳng lành cho một kiếp hồng nhan.
Luận điểm 4: bút pháp nghệ thuật đặc sắcPhân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” không thể không nói tới bút pháp nghệ thuật đặc sắc của tác giả Nguyễn Du.
Trong đoạn này, ông sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng rất giàu hình ảnh. Đây cũng là kiểu cách sử dụng nghệ thuật phổ biến trong thơ xưa, khi lấy hình ảnh vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người. Nếu chú ý, chúng ta cũng sẽ bắt gặp những kiểu ước lệ này trong thơ Hồ Chí Minh, thờ bà Hồ Xuân Hương, hay bà Huyện Thanh Quan.
Bên cạnh đó, đại thi hào Nguyễn Du còn sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, giàu sức gợi để khắc họa đậm nét nhân vật Thúy Kiều. Chính nhờ những câu ca đó càng khiến cho vẻ đẹp hình thể và nhân phẩm của Kiều càng trở nên phi thường và mang màu sắc chân lý hơn.
Qua đây, ông muốn khẳng định lại vẻ đẹp vẹn toàn của người phụ nữ thời xưa. Họ có đầy đủ những gì mà xã hội cần có rồi thế nhưng họ lại phải chịu một cuộc sống bi thương, một số phận bất hạnh. Với việc ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, tác giả cũng góp phần lên án xã hội phong kiến bất công, thối nát, chà đạp lên cuộc sống hạnh phúc con người nói chung và người phụ nữ nói riêng.
Kết bài phân tích nhân vật Thúy KiềuQua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, độc giả lần đầu tiên được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp hoàn mỹ của người phụ nữ trong thời đại phong kiến. Mà có lẽ là trong thực tế cuộc sống hiện đại. Có lẽ, nếu có phẫu thuật thẫm mỹ, chắc cũng chẳng ai có thể có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành như Thúy Kiều. Nét đẹp ấy không chỉ toát ra từ vẻ bề ngoài mà còn từ phẩm hạnh và tài năng. Để rồi sau này, khi đi sâu vào những phần sau của tác phẩm, độc giả sẽ thấy một Thúy Kiều hiếu thảo, trọng tình trọng nghĩa đến nỗi phải bán thân chuộc cha, cứu em, hy sinh tình riêng để dành trọn chữ hiếu. Để rồi qua nhiều phong ba bão tố cuộc đời, nàng trở thành một Thúy Kiều từng trải và những chiêm nghiệm cuộc đời thấu tình đạt lý.
Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích, càng thấy rõ tài năng ngôn ngữ của thi hào Nguyễn Du. Qua hơn 3 nghìn câu thơ, độc giả có thể thấy vốn từ, vốn hiểu biết chữ Nôm của ông vô cùng phong phú và giàu có. Không những thế, ông còn có một trái tim nhân hậu, yêu thương con người tha thiết và biết nhìn nhận cái đẹp đúng cách. Chỉ có một tâm hồn tha thiết với cuộc sống, với lẽ phải của đời người mới có thể viết nên những áng thơ hay để lại cho muôn đời như thi hào Nguyễn Du.