Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
A. Mở bài :
Cách 1 :
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi qua, nhưng ánh sáng chói lọi của nó vẫn luôn tồn tại cùng với lịch sử dân tộc ta qua các tác phẩm văn học như….. Và có những con người bình dị, đã làm nên cuộc kháng chiến ấy, đó là những người lính, những cô thanh niên xung phong, những chiến sĩ vô danh…. “Những ngôi sao xa xôi” viết về những con người như vậy. Ba cô gái thanh niên họp thành một tổ trinh sát mặt đường….
Họ đã sống và chết.Giản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm nên đất nước.(Ngã ba Đồng Lộc)Cách 2 :
- Truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê được viết năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt.
- Truyện kể lại cuộc sống của ba cô gái thanh niên xung phong làm công tác trinh sát và phá bom thông đường trên một cao điểm của Trường Sơn những năm tháng chống Mĩ. Qua đó thể hiện và ca ngợi tâm hồn và phẩm chất cao đẹp của những người con gái Việt Nam thời chống Mĩ: Hồn nhiên, trong sáng trong cuộc sống, dũng cảm trong chiến đấu và luôn lạc quan trước tương lai.
- Họ đã để lại một ấn tượng rất sâu sắc, giúp người đọc nhận ra rằng trong chiến thắng vinh quang của dân tộc trước một cường quốc lớn, có những con người làm việc và hiến dâng cả tuổi xuân, cả máu của mình cho đất nước.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu :
- Họ ở trong một hang dưới chân một cao điểm giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, tức là ở nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt, từng ngày, từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì bom đạn giặc: đường bị đánh “lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn” tưởng như sự sống bị huỷ diệt: “không có lá xanh” hai bên đường, “thân cây bị tước khô cháy”… “Những cây rễ nằm lăn lóc, ngổn ngang những hòn đá to…. Han rỉ trong lòng đất”.
⇒ Quả là một hiện thực khô khốc đầy mùi chiến tranh, nó không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy tử thần luôn rình rập.
- Công việc trinh sát, phá bom lại càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Đó là một công việc phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.
+ Không khí của chiến tranh không giống như tương lai hay quá khứ có một âm điệu riêng. Chẳng hạn như sự im lặng: “Cuộc sống ở đây đã dậy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng. Im lặng có nghĩa là cái chết đang rình rập đâu đây, nó ập đến bất cứ lúc nào.” Chưa hết, đó mới chỉ là hiện thực lúc yên tĩnh, còn lúc có bom của địch thì sao ? “Nghe tiếng bom đầu tiên, có đứa chết giấc, nằm dán xuống đất”, rồi “Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm trở về hang, cô nào cũng chỉ thấy hai con mắt lấp lánh, hàm răng loá lên khi cười, khuôn mặt thì lem luốc.”
2. Vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong và cũng là của tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
a. Những nét chung: Cả ba cô, cô nào cũng đáng mến, đáng cảm phục
- Họ đều thuộc thế hệ những cô gái thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mĩ mà tuổi đời còn rất trẻ (như Phương Định vốn là một cô học sinh thành phố), có lí tưởng, đã tạm xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái nơi mà cái sự mất còn chỉ diễn ra trong nháy mắt, một cách vô tư, hồn nhiên, cống hiến tuổi thanh xuân. Họ thực sự là những anh hùng không tự biết. Nét chung này không chỉ có ở đây mà còn được nói đến ở nhiều tác phẩm khác như “Gửi em, cô thanh niên xung phong” của Phạm Tiến Duật, “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ và truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu… Tạo thành biểu tượng gương mặt đẹp và đáng yêu của những cô gái mở đường thời kháng chiến chống Mĩ.
- Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ, lòng dũng cảm không sợ hi sinh, tình đồng đội gắn bó. Có lệnh là lên đường, bất kể trong tình huống nào, nguy hiểm không từ nan dù phải đối mặt với máy bay và bom đạn quân thù, và đã lên đường là hoàn thành nhiệm vụ ( dẫn chứng – sgk).
+ Nghe Phương Định kể lại một lần phá bom : “tôi một quả bom trên đồi. Nho, hai quả dưới lòng đường. Chị Thao, một quả dưới cái chân hầm ba-ri-e cũ. Cảnh tượng chiến trường trở nên vắng lặng đến phát sợ”. Đến với toạ độ chết, đến với quả bom cần phải phá nổ (mà không biết nó sẽ nổ vào lúc nào, sự cầu viện tâm linh của cô gái (nhân vật tôi) giống như một ảo ảnh : “Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không ? Mặc dù quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần nhưng cái hồi hộp dường như không hề thay đổi. Như cái cảm giác chờ bom phát nổ : tất cả đều đứng im, cả gió, cả nhịp tim trong lồng ngực. Chỉ có chiếc đồng hồ: Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng đè lên những con số vĩnh cửu…. . Quả bom có hai vòng tròn màu vàng nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Thần chết đang đợi chờ. Vỏ quả bom nóng. Định dùng lưỡi xẻng đào đất, có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Có lúc Định rùng mình vì cảm thấy tại sao mình lại làm quá chậm thế ! ... Hai mươi phút đã trôi qua. Tiếng còi chị Thao rúc lên, Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi vào dây mìn. … tiếng không khí. Đất rơi lộp bộp. Bom nổ váng óc, ngực đau nhói, đôi mắt cay mãi mới mở ra được. Mồ hôi thấm vào môi, cát lạo xạo trong miệng. Nguy hiểm, căng thẳng không thể nào kể xiết… Chị Thao vấp ngã, Nho bị thương. Bom nổ, hầm sập, chị Thao và Định phải moi đất bế Nho lên. Máu túa ra, ngấm vào đất …Định rửa vết thương cho Nho, tiêm thuốc, pha sữa cho Nho, chị Thao nghẹn ngào….”
+ Cuộc sống và chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, nguy hiểm và luôn căng thẳng nhưng họ vẫn bình tĩnh, chủ động, luôn lạc quan yêu đời. Phương Định cho biết : “Tôi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể….”.
⇒ Phải nói rằng trong đoạn văn trả cảnh phá bom trên cao điểm, Lê Minh Khuê đã sử dụng bút pháp hiện thực để tái hiện lại cảnh phá bom vô cùng nguy hiểm, dựng nên một tượng đài về khí phách anh hùng lẫm liệt của tổ trinh sát mặt đường từ những con người bằng xương bằng thịt. Chị Thao, Nho, Định như những ngôi sao xa xôi sáng ngời lên những sắc xanh trong khói lửa đạn bom. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng người như những nữ anh hùng ngã ba Đồng Lộc :
“Đất nước mình nhân hậuCó nước trời xoa dịu vết thương đauEm nằm dưới đất sâuNhư khoảng trời đã nằm yên trong đấtĐêm đêm, tâm hồn em toả sángNhững vì sao ngời chói, lung linh…”(Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)- Họ đều là những cô gái trẻ với cuộc sống nội tâm phong phú đáng yêu : dễ cảm xúc, nhiều mơ ước, hay mơ mộng, dễ vui, dễ buồn. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát… Cả ba đều chưa có người yêu, đều sống hồn nhiên tươi trẻ. Không lúc nào họ không nhớ về Hà Nội. Một trận mưa đá bất ngờ trở thành nỗi nhớ : “mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Nỗi nhớ ấy chính là sự nối dài, quá khứ, hôm nay và khát vọng mai sau.
- Những kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong tâm hồn trong trẻo, ngây thơ, dịu dàng. Những xúc cảm hồn nhiên như nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững vàng, sức mạnh vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. “Khoảng trời xanh” trong thơ Phạm Tiến Duật và khoảng trời xanh của kí ức như có sức mạnh vô hình đặc biệt là trong tâm hồn những trí thức trên đường ra trận.
⇒ Quả thực, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng như không thể cùng tồn tại : vô cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà vẫn hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống. Những người như họ thật đáng trân trọng biết bao !
b. Nét riêng:
- Mỗi người thể hiện cái chung đó theo cách riêng của mình.
+ Chị Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn, nhưng cũng không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm.” Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo. Đặc biệt là sự “bình tĩnh đến phát bực” : máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc bánh quy trong túi, thong thả nhai”. Có ai ngờ con người dày dạn trước sự sống và cái chết hàng ngày như thế lại sợ máu, sợ vắt: “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”.Và không ai có thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua, chị chăm chép bài hát dù chẳng thuộc nhạc, giọng lại chua, chị không hát trôi chảy được bài nào nhưng chị lại có ba quyển sổ dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài hát.
+ Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, “trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”, có “cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn” rất dễ thương khiến Phương Định “muốn bế nó lên tay”. Nho rất thích tắm suối ngay cả khi khúc suối đó đang chứa bom nổ chậm và rất hồn nhiên – cái hồn nhiên của trẻ thơ : “vừa tắm ở dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo”. Hồn nhiên là thế nhưng cô lại bình thản vô cùng khi bị thương : “Không chết đâu. Đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì phải khiến cho nhiều người lo lắng”. Ngay cả lúc đau đớn như vậy nhưng gặp mưa đá, Nho vẫn nhổm dậy, môi hé mở xoè tay xin mấy viên đá mưa: “Nào, mày cho tao mấy viên nữa”. Đặc biệt, khi máy bay giặc đến thì chiến đấu rất dũng cảm, hành động thật nhanh gọn : “Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi, Nho quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu” … Và trong một lần phá bom, cô đã bị sập hầm, đất phủ kín lên người. Có lẽ với những người con gái ấy, sự sống luôn cao hơn cái chết.
+ Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng ta. Phương Định cũng trẻ trung như Nho là một cô học sinh thành phố xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu yêu thương đồng đội. Cô rất nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô từ về gia đình và về thành phố của mình. (dẫn chứng). Ở đoạn cuối truyện, sau khi trận mưa đá tạnh, là cả một dòng thác kỉ niệm về gia đình, về thành phố trào lên và xoáy mạnh như sóng trong tâm trí cô gái. Có thể nói đây là những nét riêng của các cô gái trẻ Hà Nội vào chiến trường tham gia đánh giặc, tuy gian khổ nhưng vẫn giữ được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng yêu.
→ Những nét riêng đó đã làm cho các nhân vật sống hơn và cũng đáng yêu hơn. Trái tim đỏ rực của họ là “Những ngôi sao xa xôi” mãi mãi lung linh, toả sáng.
C. Kết luận.
- Chiến tranh đã qua đi, sau hơn ba mươi năm, nhưng đọc truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước. Nhà văn khiến lòng ta sống lại hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường, của Định, của Nho, của Thao, của hàng ngàn, hàng vạn cô thanh niên xung phong thời chống Mĩ. Chiến công thầm lặng của họ mãi mãi là một bài ca bất tử.
Em tham khảo 1 bài nhé:
Mở bài
-Dẫn dắt được vào vấn đề hợp lí.
-Trích dẫn được nội dung cần chứng minh ở đề bài, đánh giá khái quát vấn đề.
Thân bài
a) Giải thích:
-Giải nghĩa từ ngữ: “đọc”(tìm hiểu, suy ngẫm), “câu thơ hay”(có giá trị nội dung, nghệ thuật), “bắt gặp”(phát hiện ra, đồng cảm), “tâm hồn”(con người tinh thần bên trong con người)
-Khái quát ý nghĩa: Câu nói khẳng định: Tìm hiểu thơ, người đọc sẽ thấy được con người bên trong –con người tinh thần của nhà thơ.
-Đọc Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến, ta gặp một con người luôn đề cao và trân trọng tình bạn tri kỉ, một con người có tâm hồn thanh cao, gắn bó với cuộc sống đồng quê, cũng là một con người thâm trầm, hóm hỉnh.
b) Chứng minh vấn đề:
1. Tâm hồn con người trân trọng tình bạn tri kỉ:
-Niềm vui bất ngờ khi có bạn hiền đến thăm khi mình đã từ quan về quê ở ẩn(Phân tích câu 1)
Bài thơ đã khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến:
Một chút nhẹ nhàng tự nhiên hóm hỉnh được tác giả mở đầu bằng câu thơ:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Câu thơ như một lời chào hồ hởi thân mật vừa bộc lộ nỗi vui bất ngờ vừa tỏ ý trân trọng, quý mến bạn. Đã bấy lâu nay có nghĩa là một thời gian dài, một thời gian nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp gặp nhau làm sao mà không xúc động, không vui mừng cho được. Từ lúc cáo quan về vui sống với cảnh điền viên, ông chỉ biết lấy thiên nhiên làm bạn. Trái tim ông gửi trọn cho đất nước quê hương, nên tâm hồn luôn khắc khoải u hoài. Trong những giây phút ấy mà không ai không muốn có một người bạn để tâm sự, để an ủi. Người bạn đó đã đến với ông - Còn nỗi vui mừng nào hơn. Chính nỗi vui mừng, bất chợt mà Nguyễn Khuyên đã thốt ra lời bông đùa với bạn một cách dí dỏm cho thoả lòng trông đợi.
-Tình cảm gắn bó sâu nặng thể hiện trong mong muốn tiếp đãi bạn hiền và lời đùa vui hóm hỉnh (Phân tích 6 câu thơ tiếp theo)
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa/Ao sâu nước cả, khôn chài cá/Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà/Cải chửa ra cây, cà mới nụBầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa/Đầu trò tiếp khách, trầu không có.
Mới nghe qua, ta thấy dường như nhà thơ tỏ ý làm tiếc rằng đã lâu lắm rồi bạn mới tới nhà vậy mà không có một thứ gì để tiếp, bạn để thết đãi bạn cả: chợ thì xa, người nhà trẻ con đều đi vắng cả, ao thì sâu mà nước lớn, nên không chài bắt được cá; vườn rộng thênh thang thì khó mà bắt được gà. Đến một cây cải, mớ cà hoặc một quả bầu, một trái mướp cũng không sẵn; thậm chí một miếng trầu để tiếp khách cũng không có. Tác giả đang phân trần, giải thích sự thiếu sót của mình. Thực ra đây chỉ là cách nói cường điệu như vậy mà đã đùa với bạn, vừa tỏ thái độ nhớ mong chờ đợi bấy lâu mà thôi. Và qua những lời trần tình ấy ta cũng hiểu được cuộc sống của tác giả ở làng quê: đạm bạc, giản dị, luôn gắn bó với nông thôn.
-Lời khẳng định tình bạn tri kỉ vượt qua mọi thứ vật chất tầm thường (Câu cuối)
Bác đến chơi đây, ta với ta...
Câu thơ bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành của tác giả đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật không màng đến vật chất. Bác đến chơi đây không có gì cả, chỉ có ta với ta khiến ta nhớ đến câu kết trong bài Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan khi đứng trước cảnh đèo ngang hoang vắng cô liêu, đang mang nặng một nỗi u buồn, niềm suy tư khôn cả, không thể tâm sự cùng ai, nên bà tự quay về với lòng mình “ta với ta”. Còn “ ta với ta” mà nhà thơ Nguyễn Khuyến sử dụng nhằm chỉ nhà thơ và người bạn tuy hai mà một, tuy một mà hai, nó gắn bó quyện chặt vào nhau, không gì chia cắt được. Ở đây chỉ có ta với ta nhưng lại có tất cả. Bởi vì tình bạn giữa ta với ta mới là cao quý, nó không đòi hỏi bất kì một điều kiện vật chất nào cả, thậm chí cả một miếng trầu làm đầu câu chuyện để tiếp bác cũng không. Qua đó ta mới thấy nghệ thuật trào lộng của Nguyễn Khuyến thật là hóm hỉnh nhẹ nhàng mà tế nhị sâu sắc.
2. Tâm hồn một con người có nếp sống thanh cao, gắn bó với lao động, với đồng quê:
-Từ quan về quê sống cuộc sống giản dị, thanh bần.
-Giới thiệu với bạn về những thứ cây nhà lá vườn do tự tay mình làm ra...
-Dùng ngôn ngữ bình dân chửa ra cây, vừa rụng rốn....,
3. Tâm hồn của một bậc cao nhân, vừa đùa vui hóm hỉnh, vừa thâm trầm sâu xa:
-Sau lời chào là những câu thơ ẩn chứa nụ cười hóm hỉnh, tất cả đều có nhưng lại chẳng có thứ gì để có thể thết đãi bạn quý... Cả miếng trầu cũng không có.
-Bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc về một tình bạn cao đẹp, vượt qua tất cả hoàn cảnh, thời gian, địa lí, vượt qua mọi thứ vật chất tầm thường... Bài thơ thể hiện tài năng của nhà thơ, cũng thể hiện trí tuệ, sự uyên bác của một nhân cách lớn .
c) Đánh giá:
1. Đánh giá về nghệ thuật thể hiện: thể thơ thất ngôn bát cú, ngôn ngữ giản dị nhiều khẩu ngữ, kết cấu độc đáo bất ngờ ở câu kết...
2. Nội dung: Đọc bài thơ ta bắt gặp vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Khuyến: một con người uyên bác, một nhà thơ lớn, sống thanh cao, giản dị , trọng tình nghĩa. Ông là một tác giả lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam.
3. Đánh giá chung về vấn đề cần nghị luận:
-Thơ ca, nghệ thuật là nơi người nghệ sĩ giãi bày tâm tư, cảm xúc, rung động trước cuộc đời.
-Tác phẩm biểu hiện tâm hồn nhà thơ, vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ là cội nguồn tạo nên vẻ đẹp, giá trị tác phẩm.
-Đọc thơ hay, gặp gỡ tâm hồn người nghệ sĩ, người đọc thơ được thanh lọc, hoàn thiện tâm hồn mình.
Kết bài:
-Đánh giá khái quát lại vấn đề.
-Bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của bản thân về vấn đề vừa làm sáng tỏ.
1. PTBĐ: Nghị luận
2. Cho thấy những điều thời gian làm trên da thịt là những vết nhăn còn sự thơ ơ làm cho tâm hồn bị nhăn. Vết nhăn của thời gian có thể xóa mờ nhưng vết nhăn trên tâm hồn thì rất khó. Tác giả muốn mọi người không nên sống thờ ơ mà nên sống vui vẻ biết giúp đỡ mọi vật xung quanh.
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn (có đáp án)-Tiến sĩ sẽ hỗ trợ chấm bài trực tiếp cho đề thi này- (Chi tiết đọc ở mục bình luận) - Ngữ văn 9 - Hugh Wilfred Truong - Thư viện Đề thi & Kiểm tra
Nguyễn Minh Tường - Mình không rõ có làm được link trang xanh không nhé, có gì bạn ib với mình cho rõ :D
Chúc bạn học tốt ~~
Mac-xim Go-rơ-ki (1868-1936), là một trong những nhà văn lớn của Nga và của cả thế giới trong thế kỷ XX. Ông có một tuổi thơ đầy bất hạnh, trong quá trình trưởng thành cũng gặp rất nhiều gian nan vất vả. Tuy nhiên trong tâm hồn nhà văn vẫn luôn có những tình yêu bền bỉ, chân thành, mà nền tảng là trong con đường theo đuổi học vấn của mình. Bộ ba tác phẩm nổi tiếng Thời thơ ấu – Trong thế giới – Những trường đại học của tôi, dường như là một bộ tự truyện kể về quãng thời thơ ấu và trưởng thành đầy gian nan, vất vả của nhà văn. Đoạn trích Những đứa trẻ được trích trong chương IX của tác phẩm Thời thơ ấu kể về một trong những ký ức tuổi thơ đầy dữ dội và đáng nhớ của tác giả.
A-li-ô-sa (tên ở nhà của tác giả), là một đứa trẻ mồ côi, phải ở với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi thêm bước nữa. Bên nhà hàng xóm là ông đại tá đã già Ốp-xi-an-ni-cốp hiện đang sống cùng người vợ kế và ba đứa con riêng. Trong một lần tình cờ A-li-ô-sa đã kéo dây gàu cùng với hai đứa lớn và cứu được đứa em út do nghịch gàu múc nước mà rơi xuống giếng. Kể từ đó bốn đứa trẻ trở nên thân thiết, bất chấp sự cấm đoán của người cha. Ba đứa trẻ nhà bên có cuộc sống giàu có vì cha là đại tá, nhưng vì mồ côi mẹ nên sống thiếu tình thương, chỉ biết nương tựa vào nhau, lại thường hay bị cha cho ăn đòn. Còn A-li-ô-sa thì cũng mồ côi, sống nương tựa vào ông bà, cuộc sống không mấy khá giả và cũng thường bị ông đánh đòn. Ở những đứa trẻ này trước tiên ta thấy có sự tương đồng về hoàn cảnh, chúng có một tuổi thơ nhiều nỗi buồn và khó nhọc dù là giàu hay nghèo.
Sau chuyện thằng út nhà hàng xóm bị ngã xuống giếng, đến cả tuần rồi mấy đứa trẻ mới gặp lại nhau. Chúng chơi với nhau rất hợp cạ, nói chuyện liên hồi không dứt, rồi chẳng biết tò mò hay quan tâm mà A-li-ô-sa hỏi: “Các cậu có bị ăn đòn không?”, sau đó A-li-ô-sa tức giận bởi cậu nghĩ không ngờ ba đứa trẻ ấy cũng bị ăn đòn, cậu tưởng chỉ có người ông khó tính của cậu mới đánh đòn người khác. Trong tâm hồn non nớt của một đứa trẻ đã ánh lên chút gì đó gọi là lòng thương, lòng chính nghĩa trong khi chính bản thân cậu cũng chẳng khá khẩm gì hơn.
Tuy chịu nhiều khó nhọc, nhiều nỗi đau nhưng những đứa trẻ vẫn giữ cho mình cái tính ngây thơ, hồn nhiên đúng tuổi. Chúng cũng thích săn bắt mấy chú chim nhỏ, nhưng rồi lòng lương thiện, tấm lòng yêu thương động vật đã ngăn các cậu làm thế. Một phần là sợ mấy chú chim sẽ chết dưới vuốt mèo, phần là sợ bố chẳng cho nuôi. Trong ba cái đầu non nớt ấy có một nỗi niềm e sợ chính người cha ruột thịt của mình, thật xót xa. Khi nhắc về mẹ, ta thấy những đứa trẻ ấy trả lời rất thẳng thắn, rất mạch lạc có lẽ chúng chưa hiểu được nỗi đau mất mẹ hoặc cố không thể hiện ra mặt. Nhưng câu trả lời của chúng lại khiến cho người đọc thấy thương cảm, câu trả lời càng thẳng thắn càng thể hiện sự cô đơn của ba đứa trẻ mất mẹ. Và khi nhắc về mẹ kế “cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt có vẻ sầm lại”, chúng đang tức giận hay sợ hãi? Có lẽ phần nhiều là sợ hãi và căm ghét bởi chúng nép vào nhau “như những chú gà con” trông thật tội nghiệp, bơ vơ.
A-li-ô-sa cũng là một đứa trẻ mồ côi, cậu cũng thương cảm cho ba đứa trẻ ấy, cậu cố nghĩ ra một điều gì đó để an ủi ba đứa trẻ và rồi cậu nghĩ ra những câu chuyện cổ tích, những phép màu kì diệu có thể khiến người chết sống lại, có khi mẹ ba đứa trẻ ấy có thể sống lại cũng nên. Câu chuyện đấy bà từng kể cho cậu nghe rất nhiều lần. Nhưng thật bất ngờ cả ba đứa trẻ dường như đã trưởng thành, chúng chẳng còn tin vào chuyện cổ tích và dường như điều đó lại làm chúng thêm buồn bã, càng lâm vào trầm tư, có lẽ là đang tủi thân. A-li-ô-sa bỗng cảm thấy bản thân thật may mắn và hạnh phúc hơn ba đứa trẻ kia thật nhiều, bởi ít ra cậu không có cuộc sống sung sướng, nhưng ít ra cậu vẫn có người bà kề bên kể cho cậu nghe những câu chuyện cổ tích thật hay, còn chúng thì không,...
Sự xuất hiện của người cha đã khiến cuộc nói chuyện của những đứa trẻ chấm dứt, ông ta rất hung dữ, nạt nộ ba đứa trẻ vào nhà đồng thời còn cấm đoán việc A-li-ô-sa chơi với con ông ta. Mà nguyên nhân chính đó là sự phân biệt giai cấp, phân biệt giàu nghèo sâu sắc dưới chế độ Nga hoàng thời bấy giờ đã ngăn cách tình bạn thật đẹp của ba đứa trẻ. Tuy nhiên điều đó chẳng thể nào ngăn cản được cái tính ham chơi và những tâm hồn cô đơn đồng điệu xích lại gần nhau hơn. Chúng vẫn chơi với nhau rất thân thiết, tuy nhiên phải đề phòng bị ông đại tá bắt gặp. Thế rồi như những người bạn tri kỷ chúng lần lượt kể nhau nghe những chuyện buồn tẻ chán nản, chia sẻ với nhau những chuyện bắt chim, nuôi chim hằng ngày, kể chuyện cổ tích cho nhau nghe. Chỉ có duy nhất là chưa bao giờ nghe ba đứa trẻ kể về bố và mẹ kế, có lẽ đó là những niềm đau, là niềm kiêng kỵ trong tâm hồn của cả ba đứa trẻ tội nghiệp hoặc chúng đã tự giác gạt họ ra khỏi cuộc sống chăng? Chúng cảm thấy buồn bã vì thiếu tình cảm yêu thương từ những người thân thuộc, từ bố, từ mẹ, từ bà. Điều đó đã để lại trong lòng A-li-ô-sa thật nhiều niềm suy tư và lại càng thêm yêu thích ba đứa trẻ hàng xóm ấy.
Đoạn trích ngắn tuy chỉ là những lời nói chuyện rất đỗi ngây thơ và thông thường của những đứa trẻ, tuy nhiên đã để lại trong lòng người đọc nhiều sức gợi. Đó là nỗi niềm chua xót trước hoàn cảnh mồ côi của những đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau ấy không một thứ vật chất nào có thể lấp đầy, ngoài tình thân trong gia đình. Và hơn cả là tình bạn thật hồn nhiên và trong sáng của A-li-ô-sa và ba đứa trẻ nhà bên, giữa chúng đã có sự đồng cảm, bao dung lẫn nhau. Thứ tình cảm ấy đã vượt qua cả sự cấm đoán và sự khác biệt giai cấp để tìm đến nhau như những tâm hồn tri kỷ, an ủi cho nỗi đớn đau trong lòng mỗi đứa trẻ bằng sự hạnh phúc, vui vẻ chân chính của tuổi thơ.