">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Trong xã hội hiện đại ngày nay, đã có nhiều truyền thống bị mai một, nhưng có một giá trị truyền thống vẫn được người Việt lưu giữ cho tới bây giờ đó là tục gói bánh chưng vào ngày lễ tết. Đó là nét đẹp truyền thống không thể thiếu được vào mỗi dịp xuân về, mọi người cùng nhau bên nồi bánh chưng nghi ngút khói tỏa thể hiện sự sum vầy đoàn tụ.

Việc thờ bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán phản ánh được nhiều bình diện cuộc sống.Tục gói bánh Chưng đã tồn tại ở nước ta từ thời đại Vua Hùng, và là một trong những giá trị truyền thống trường tồn với thời gian, đi cùng năm tháng lịch sử của dân tộc. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc và gần 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây, phong tục gói bánh Chưng dâng lên tổ tiên vẫn không hề mai một.Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dầy”, Vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Lang Liêu là người nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh Chưng và bánh dầy tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Lễ vật của Lang Liêu rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó bánh Chưng, bánh dầy đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông.Trong những ngày Tết đến, xuân về, những hương vị và những vật phẩm đã trở thành quen thuộc trong dịp tết như: thịt mỡ, dưa hành, bày trí trong nhà một cành đào hay một cành mai, một bức câu đối được cắt làm đôi treo cân xứng hai bên xà nhà. Trên bàn thờ tổ tiên bày trí đủ các loại: mâm ngũ quả, kẹo bánh, mứt, rượu,... đặc biệt là bánh chưng. Tất cả đã tạo nên một không khí, không gian rất "Tết"!.Bánh chưng sau khi đã thờ cúng tổ tiên xong, được dọn xuống để mọi người cùng thưởng thức. Hẳn chúng ta sẽ không ngớt lời tấm tắc rằng bánh chưng đúng là một trong những loại thức ăn vừa ngon, béo, thơm và trông thật mĩ quan! Nó đã tôn lên niềm tự hào về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. 

20 tháng 1 2019

Trong xã hội hiện đại ngày nay, đã có nhiều truyền thống bị mai một, nhưng có một giá trị truyền thống vẫn được người Việt lưu giữ cho tới bây giờ đó là tục gói bánh chưng vào ngày lễ tết. Đó là nét đẹp truyền thống không thể thiếu được vào mỗi dịp xuân về, mọi người cùng nhau bên nồi bánh chưng nghi ngút khói tỏa thể hiện sự sum vầy đoàn tụ.

1_754213.jpg

Việc thờ bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán phản ánh được nhiều bình diện cuộc sống.

Tục gói bánh Chưng đã tồn tại ở nước ta từ thời đại Vua Hùng, và là một trong những giá trị truyền thống trường tồn với thời gian, đi cùng năm tháng lịch sử của dân tộc. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc và gần 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây, phong tục gói bánh Chưng dâng lên tổ tiên vẫn không hề mai một.

Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dầy”, Vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi.

Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Lang Liêu là người nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh Chưng và bánh dầy tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua.

Lễ vật của Lang Liêu rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó bánh Chưng, bánh dầy đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông.

Trong những ngày Tết đến, xuân về, những hương vị và những vật phẩm đã trở thành quen thuộc trong dịp tết như: thịt mỡ, dưa hành, bày trí trong nhà một cành đào hay một cành mai, một bức câu đối được cắt làm đôi treo cân xứng hai bên xà nhà. Trên bàn thờ tổ tiên bày trí đủ các loại: mâm ngũ quả, kẹo bánh, mứt, rượu,... đặc biệt là bánh chưng. Tất cả đã tạo nên một không khí, không gian rất "Tết"!.

Bánh chưng sau khi đã thờ cúng tổ tiên xong, được dọn xuống để mọi người cùng thưởng thức. Hẳn chúng ta sẽ không ngớt lời tấm tắc rằng bánh chưng đúng là một trong những loại thức ăn vừa ngon, béo, thơm và trông thật mĩ quan! Nó đã tôn lên niềm tự hào về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử.

22 tháng 7 2019

a, Đằng đông: trạng ngữ

    Trời: chủ ngữ

    Hửng dần: vị ngữ

b, Lũ chim sâu: chủ ngữ

 còn lại: vị ngữ

c, anh: cn

  cởi áo ra: vị ngữ

em:cn

vá lại cho:vn

em:cn 

vá khéo:vn

mẹ:cn

ko biết đc đâu:vn

30 tháng 7 2019

a. CN: Trời - VN: ửng dần -> câu đơn

b. CN: lũ chim sâu - VN: nhảy nhót trên cành và chiêm chiếp kêu -> câu đơn

c. CN1: anh - VN1: cởi áo ra; CN2: em - VN2: vá lại cho; CN3: em - VN3: vá khéo; CN4: mẹ - VN4: không biết được đâu -> câu ghép

GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
19 tháng 9 2018

Câu ca dao trên sử dụng nghệ thuật ẩn dụ "nuột lạt" và nghệ thuật so sánh "bao nhiêu" - "bấy nhiêu". Nhà thời xưa ở làng quê Việt Nma thường được lợp bằng rơm rạ. Từ "nuột lạt" để chỉ những sợi tre/ giang được chẻ nhỏ, mỏng, dẻo dai và bền chắc, dùng để buộc những lớp mái ngói/ rơm rạ với khung trên mái nhà. Nhà thường là tượng trưng cho tình cảm gia đình. Mái nhà thường gợi nhớ về tổ tiên, cội nguồn. "Nuột lạt" là hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự gắn kết bền chặt của tình cảm gia đình. Hành động "ngó lên" để gợi sự tưởng nhớ, biết ơn của con cháu đối với ông bà, tổ tiên. Cụm từ chỉ sự đong đếm ước lệ "bao nhiêu" - "bấy nhiêu" đã khiến cho tình cảm, sự biết ơn ấy trở nên vô hạn. Câu ca dao bằng sự quan sát và cảm nhận tinh tế đã gửi gắm tình cảm, sự biết ơn vô hạn của con cháu đối với ông bà.

16 tháng 4 2021

cây tre xanh,nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm là phép liệt kê 

Tác dụng : diễn tả sâu sắc cây tre VN

11 tháng 10 2016

Thân bài:

+ Loại cây đó được trồng thế nào?

+ Cảm nghĩ của em về cây đó ( ban đầu )

+ Kể một tí chút về cây vào mùa gì? ( nổi bật nhất )

+ Bộ phận

+ Hình dáng

+ Lợi ích

+ Công sức của người nông dân

+ Kết quả thu hoạch được

Lưu ý : biểu cảm, vào suy nghĩ của bản thân

11 tháng 10 2016

1) Dàn ý : 
- Nghề trồng lúa lâu đời, đồng bằmg sông Hồng, Cửu Long, vựa lúa cả nước. 
- Hai vụ lúa 
- Nhiều giống lúa 
- Nguồn sống loài người 
- Nghề trồng lúa là nghề căn bản nhà nông 
- Cây lúa -> trồng -> gieo -> cấy -> phát triển -> thu hoạch 
- Hạt gạo ăn, làm bánh, xuất khẩu. 
- Rơm rạ, chất đốt, chăn nuôi, lộp nhà, làm nấm. 
- Cảm nghĩ cây lúa quê em 

2) Một vài ý tưởng : 
- Còn nhỏ là cây mạ, lớn lên là cây lúa, bông đâm ra gọi là đòng, hạt lúa non là cốm, hạt lúa già là thóc; bông lúa gặt về thì phần còn lại ngoài đồng là rạ, đập tách hạt thóc ra rồi thì phần còn lại của bông lúa là rơm; sau khi xay giã xong thì hạt thóc chia thành gạo, cám, trấu; gạo gãy gọi là tấm; gạo nấu lên thành cơm, xôi, nấu cho nhiều nước thành cháo, chế biến thành món quà là bỏng,... Cây lúa lại có nhiều loại: nếp, tẻ, mùa, chiêm... Trong số các loại lúa, khi xưa, người Việt dùng lúa nếp là chính, trong lúa tẻ thì lúa mùa là chính. 
- Các câu ca dao , tục ngữ về lúa : 
+Người sống về gạo, cá bạo về nước 
+Cơm tẻ mẹ ruột 
+Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường. 
- "Ở Lĩnh Nam có nhiều thóc tẻ, mà ở Giao Chỉ là nhiều nhất. Còn thóc nếp thì ở An Nam có nếp trắng, nếp vàng, đến hơn mười giống; họ dùng gạo tẻ nấu cơm ăn và gạo nếp để nấu rượu" (sách Quảng Đông có chép ). 
-Có hai vụ lúa chính : vụ chiêm và vụ xuân. 
-Lợi ích, công dụng của cây lúa : Cây lúa đóng vai trò chính, chủ yếu trong việc cung cấp lương thực cho nhân dân Việt Nam, Nó góp phần làm giàu đất nước qua việc xuất khẩu thu ngoại tệ . Ngày nay, Việt Nam được xem là một trong các nước có sãn lượng lúa xuất khẩu hàng đầu thế giới. 
Song song với hình ảnh con trâu, cây lúa đã đi sâu vào đời sống quần chúng, nhân dân qua thơ ca, ca dao tục ngữ, văn học, âm nhạc... 
 

23 tháng 12 2019

Phép điệp ngữ có tác dụng khẳng định sự trường tồn bất diệt về giá trị của tre xanh với sức sống dân tộc.