Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nội dung: Theo Nguyễn Trãi cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa là phải yên dân, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân. Nhân nghĩa phải gắn liền với yêu nước, chống quân xâm lược để bảo vệ bách tính,bảo vệ mảnh đất quê hương.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Ai đưa con sáo sang sông,
Để cho con sáo sổ lồng bay ra.
Anh về học lấy chữ hương,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Anh đi anh nhớ non buồi
Nhớ sông Vị Thủy, nhớ người còn trinh
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Ai về Hà Tĩnh thì về,
Mặc lụa chợ Hạ, uống chè hương sen.
Ai về Tuy Phước ăn nem,
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm.
Ai về đến huyện Đông Anh,
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương.
Cổ Loa hình ốc khác thường,
Trải qua năm tháng, nẻo đường còn đây.
Anh hùng là anh hùng rơm,
Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.
Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Anh đi Bình Định ở lâu,
Chiều chiều em đứng vườn dâu ngó chừng.
Hai hàng nước mắt rưng rưng,
Chàng xa thiếp cách, ngang chừng muốn băng.
Phụ mẫu nhà la dức rầm rầm,
Cơm sao ngơ ngáo, làm không muốn làm.
Bởi chưng thiếp bắc chàng nam,
Giơ tay không nổi còn làm việc chi.
Ai về nhớ Vải Ninh Hòa,
Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê,
Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê,
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào.
Ai về Nhượng Bạn thì về,
Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.
Anh ơi! Cố chí canh nông
Chín phần ta cũng dự trong tám phần
Hay gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng lấy lúa,chăn tằm lấy tơ.
C[sửa]
Cây cao thì gió càng lay ,
Càng cao danh vọng càng dày gian nan.
D[sửa]
Dã tràng se cát biển đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Dù em con bế con bồng,
Thi đua yêu nước quyết không lơ là.
Dù ai đi ngược về xuôi,
Cơm nắm lá cọ là người sông Thao.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
Dao cau rọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc,mắt nàng nàng đưa.
Ai về đến huyện Sa Pa
Nhớ xem phong cảnh nóc nhà Đông Dương
Đ[sửa]
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.
Con gái nói có là không,
Nói yêu là ghét, nói buồn là vui.
Đàn ông đi biển có đôi,
Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Đời người có một gang tay,
Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang.
Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi,
Mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông.
Đa tình thì vướng nợ tình,
Trách người đã vậy, trách mình sao đây !
Đã cam quấn quít má đào,
Những mong chim nhạn mai trao chỉ hồng.
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao Mai.
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đôi ta bắt gặp nhau đây,
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.
Đôi ta như tượng mới tô,
Như chuông mới đúc, như chùa mới xây.
Đôi ta như lửa mới nhen,
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.
Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau.
Đôi ta như ruộng năm sào,
Cách bờ ở giữa làm sao cho liền?
Đôi ta như thể đồng tiền,
Đồng sấp, đồng ngửa, đồng nghiêng, đồng nằm.
Đôi ta như thể con bài,
Đã quyểt thì đánh, đừng nài thấp cao
Đôi ta như đá với dao,
Năng siếc, năng sắc, năng chào, năng quen.
Đôi ta như ngãi Phan Trần,
Khi xa ngàn dặm, khi gần bên đôi.
Đôi ta như rượu với nem,
Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa.
Đôi ta như lúa đòng đòng,
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha
Đôi ta như chỉ xe ba,
Thầy mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều.
Đêm nằm lưng chẳng tới giường,
Trông cho mau sáng ra đường gặp em.
Đi ngang thấy ngọn đèn chong chóng,
Thấy em nho nhỏ, muốn bồng mà ru.
Đường dài ngựa chạy biệt tăm,
Người thương có nghĩa trăm năm cũng về.
Đầu năm ăn quả thanh yên,
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
Vì cam cho quýt đèo bòng,
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương.
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng:
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Đói lòng ăn nửa trái sim,
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Người thương, ơi hỡi, người thương,
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng.
Đôi ta cùng bạn chăn trâu,
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hang.
Bao giờ cho gạo bén sang,
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh.
Đường xa thì thật là xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó nhỡ lời giao đoan.
Đêm qua trời sáng trăng rằm,
Anh đi qua cửa em nằm không yên.
Mê anh chẳng phải mê tiền,
Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng.
Thấy anh em những mơ màng,
Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi.
Thấy anh chưa kịp ngỏ lời,
Ai ngờ anh đã vội dời gót loan.
Thiếp tôi mê mẩn canh tàn,
Chiêm bao như thấy anh chàng ngồi bên.
Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên,
Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày.
Nghĩ rằng duyên nợ từ đây,
Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào.
Cho thiếp tỏ thiệt thấp cao!
Đợi chờ trúc ở với mai,
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.
Đi qua nghiêng nón, cúi lưng,
Anh không chào, em không hỏi, vì chưng đông người.
Đôi ta thương mãi nhớ lâu,
Như sông nhớ nước, như nhành dâu nhớ tằm.
Đấy, đây xứng đáng cũng vừa,
Xin đừng kén chọn lọc lừa nơi nao.
Đu đủ tía, giềng giềng cũng tía,
Khoai lang ngâm, ngọn mía cũng giâm.
Củi kia chen lẫn với trầm,
Em giữ sao cho khỏi, kẻo lầm, bớ em!
Đi đâu bỏ nhện giăng mùng,
Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu!
Đại Hoàng phong cảnh hữu tình,
Của nhiều đất rộng gái xinh trai tài.
Đố ai lặn xuống vực sâu,
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa.
Đố ai bắt chạch đằng đuôi,
Bắt chim đầu cánh, bắt người trong trăng.
Đố ai biết đá mấy hòn,
Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm.
Đố ai lượm đá quăng trời,
Đem gầu tát biển, ghẹo người trong trăng.
Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,
Tua rua bằng một, cất bát cơm chăm.
Tháng tư mua nứa đan thuyền,
Tháng năm tháng sáu gặt miền ruộng chiêm.
Đố ai tát bể Đông Khê,
Tát sông Bồ Đề, trăng tròn mấy đêm.
Đông Thành là mẹ là cha,
Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Nghệ thì vô!
Đường lên Mường Lễ bao xa?
Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh.
Đường lên xứ Lạng bao la?
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi, đứng lại mà trông,
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ…
Đường về Kiếp Bạc bao xa?
Đường về Kiếp Bạc có cây đa Bồ Đề.
Có yêu anh cắp nón ra về,
Giàu ăn, khó chịu chớ hề thở than.
Đất ta bể bạc, non vàng,
Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết cây mấy tầng.
Đi bộ thì khiếp Hải Vân,
Đi thuyền thì khiếp sóng Thần, hang Dơi.
Yêu nhau cho thịt cho xôi,
Ghét nhau đưa đến Kim Bôi , Hạ Bì.
Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò từ Vĩ Dạ thẳng ngả Ba Sình.
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh,
Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non.
Đức Thọ gạo trắng nước trong,
Ai về Đức Thọ thong dong con người.
Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát nước trong
Dòng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
Đố anh con rết mấy chân?
Núi Đầu Mâu mấy thước, chợ Hôm mấy người?
Đất Châu Thành anh ở
Xứ Cần Thơ nọ em về
Bấy lâu sông cận biển kề
Phân tay mai trúc dầm dề hột châu.
Đống Đa ghi để lại đây,
Bên kia thanh miếu, bên này Bộc am.
Đồng Nai có bốn rồng vàng,
Lộc họa Lễ phú San đàn Nghĩa thi.
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,
Con bế con bồng, con dắt, con mang.
Bò đen húc lẫn bò vàng,
Hai con húc chắc, đâm quàng xuống sông.
Thằng bé chạy về bảo ông
”Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi”.
Đàn ông miệng rộng thì tài,
Đàn bà miệng rộng điếc tai láng giềng.
Đàn ông nông nổi giếng khơi,
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
Đói thì đầu gối phải bò,
Cái chân hay chạy cái giò hay đi.
Đồng tiền không phấn không hồ,
Sao mà khéo điểm khéo tô mặt người!
Đem chuông đi đấm nước người,
Chẳng kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.
Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, tách trà ai dâng.
Đói lòng ăn hột chà là,
Để cơm nuôi mẹ , mẹ già yếu răng.
Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.
Đã sinh ra kiếp ở đời,
Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.
Gái thời trinh tịnh lòng son,
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
Trai lành gái tốt ra người,
Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng,
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
Em chồng ở với chị dâu,
Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày.
Con cô, con cậu thì xa,
Con chú, con bác thật là anh em.
Đói thì ăn ngô, ăn khoai,
Đừng ở với dượng, điếc tai láng giềng.
Đường đi những lách cùng lau,
Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.
Duyên sao cắc cớ, hỡi duyên!
Cầm gương, gương tối, cầm vàng, vàng phai.
Đừng nài lương giáo khác dòng,
Vốn đều con Lạc cháu Hồng khi xưa.
Đôi ta như cái đòng đòng,
Đẹp duyên, nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha.
- Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai.
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say.
Đồn rằng quan tướng có danh,
Cưỡi ngựa một mình, chẳng phải vịn ai.
Ban khen rằng:"Ấy mới tài",
Ban cho cái áo với hai đồng tiền.
Đánh giặc thì chạy trước tiên
Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra!
Giặc sợ, giặc chạy về nhà
Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân!
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ.
Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc,
Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân,
Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần,
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
Nước Đồng Mười lóng lánh cá tôm,
Muốn ăn bôn súng mắm kho,
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm,
E - Ê[sửa]
Em như hoa gạo trên cây
Anh như một đám cỏ may bên đường.
Lạy trời cho cả gió sương,
Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ may.
Em liều một cái bánh bò
Còn nào chót chét,cặp giò chặt hai.
G[sửa]
Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay.
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Gánh cực mà đổ lên non,
Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau.
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân?
Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa,
Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua.
Gái Thái Bình lòng ngay dạ thẳng,
Trai bạc tình một cẳng về quê.
Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui
Gà khôn gà chẳng đá lang
Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi.
H[sửa]
Hoa thơm ai chẳng muốn đeo,
Người khôn ai nỡ cứ theo nặng lời.
Hoa thơm ai chẳng nâng niu,
Người khôn ai chẳng mến yêu mọi bề.
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em (còn) để làm tin trong nhà.
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa.
Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa,
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.
Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời,
Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan.
Học trò xứ Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô tát ánh trăng vàng đổ đi
I[sửa]
Ích nước lợi nhà
L[sửa]
Làm trai cho đáng nên trai,
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Làm trai lấy được vợ hiền,
Như cầm đồng tiền mua được của ngon.
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền.
Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.
Anh em Mười Chức công khùng,
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Lênh đênh ba mũi thuyền kề,
Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu.
Lênh đênh ba bốn thuyền kề,
Chiếc ra Hà Nội, chiếc về sông Dâu.
Vì tằm em phải hái dâu,
Vì người lịch sự em ngồi rầu bên nong.
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết còn gì là xuân?
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Làng tôi có lũy tre xanh,
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
Bên bờ vải nhãn hai hàng,
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
M[sửa]
Muốn sang thì bắc Cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Mười năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu tỉnh, cơ đồ lại nên.
Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng.
Mẹ già như chuối chín cây,
Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi.
Mình về có nhớ ta chăng,
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi, thiếp tính khó gì chẳng ra.
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
Chín mười cắt rạ đồng mùa,
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh ăn rồi anh lại nằm,
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng thà lấy chú lực điền,
Gạo bồ, thóc giống còn phiền nỗi chi.
N[sửa]
Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên đường hay không.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.
Ngoài miệng thì nói Nam mô,
Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm.
Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo,
Nghèo tiền nghèo bạc chả lo là nghèo.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Nam Kì sáu tỉnh em ơi
Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn,
Sông Hương nước chảy trong luôn,
Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài.
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
Tùng tùng trống đánh ngũ liên,
Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa.
Người ta rượu sớm trà trưa,
Thân em đi sớm về trưa cả đời.
Lạy trời ứng nghiệm một lời,
Cho em gặp được một người em thương.
Người ta bán vạn mua ngàn,
Thân em buôn bán cơ hàn vẫn vui.
Người ta đi đôi về đôi,
Thân em đi lẻ về côi một mình.
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương!
Nói chín thì nên làm mười
Nói mười làm chín kẻ cười người chê.
*Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
:Trong trời trông đất trông mây
Trong mưa trông nắng trông ngày trông đêm
:Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
O - Ô - Ơ[sửa]
Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
Ớt nào mà ớt chẳng cay,
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Ở sao vừa được lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê
P[sửa]
Phượng hoàng ở chốn cheo leo,
Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.
Bao giờ gió thuận mưa hòa,
Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.
Phải duyên phải kiếp thì theo,
Cám còn ăn được, nữa bèo như anh.
Phấn son tô điểm sơn hà,
Làm cho rỡ mặt đàn bà nước Nam.
Phong lưu là cạm ở đời,
Hồng nhan là bẫy những người tài hoa.
Phượng hoàng đậu nhánh vông nem,
Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi.
Ngã tư Chợ Gạo nước hồi,
Tui chồng mình vợ còn chờ đợi ai.
Q[sửa]
Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp, ngả sầu bấy nhiêu.
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Quảng Nam có núi ngũ hành,
Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương.
Quan văn mất một đồng tiền,
Xem bằng quan võ mất quyền quận công.
Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Lấy anh từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con với chàng.
Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Tiền gạo thì của mẹ cha,
Cái nghiên, cái bút thật là của em.
Quân tử là quân tử Tàu,
Ăn cơm thì ít, ăn rau thì nhiều.
R[sửa]
Ra đi là sự đã liều,
Nắng mai phố lạ, mưa chiều thôn xưa.
Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Rượu nhạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Rủ nhau xuống bể mò cua,
Đem về nấu quả me chua trên rừng.
Em ơi chua, ngọt đã từng,
Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau.
Ruộng đồng mặc sức chim bay,
Nước sông lai láng cá bầy đua bơi.
Rừng có mạch, vách có tai,
Người trong chưa tỏ, người ngoài đã hay.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Ra đi ngó trước ngó sau,
Ngó nhà thấy cột, ngó nhau thấy buồn.
Ra đường bà nọ bà kia,
Về nhà không khỏi cái nia cái sàng.
Ra đường võng lộng nghêng ngang,
Về nhà hỏi vợ cơm rang đâu rồi ?
Ra sông mới biết cạn sâu,
Ở trong lạch hói, biết đâu mà dò.
Ra về bụng nhớ người thương,
Tay vỗ thanh giường chép miệng thở than!
Ra về ruột nọ quặn đau
Nhơn sâm sắc uống mấy tàu cho nguôi.
Rau muống bắt cuống rau răm,
Làm chi đến nỗi chàng cầm cổ tay.
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng,
Dù thương cho lắm cũng chồng người ta.
Rau răm hái ngọn còn tươi,
Lạng nghe anh nói mấy lời mà cay.
Kể chi những chuyện trước đây,
Lòng em tưởng những núi này, non kia.
Rèm xưa ba bức mành manh,
Mắt cô thế ấy tu hành được đâu.
Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người quân tử lạc loài tới đây.
Rồng nằm bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi.
Ru con con ngủ cho rồi,
Mẹ ra chỗ vắng, mẹ ngồi than thân.
Ruộng ai thì nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp, đừng chờ uổng công.
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Rượu nằm trong nhạo chờ nem,
Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình.
Rừng như biển thánh khôn dò,
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra.
S[sửa]
Số giàu đem đến dửng dưng,
Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
Số giàu tay trắng cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Sông sâu có thể bắc cầu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho tường.
Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
Ruộng ai thì nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công.
Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy,
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng,
Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang,
Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa?
Sài Gòn có bến Chương Dương,
Có dinh Độc Lập có đường Tự Do.
T[sửa]
Thời giờ ngựa chạy, tên bay,
Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm.
Đông qua Xuân lại đến liền,
Hè về rực rỡ, êm đềm Thu sang.
Giờ con chăm học, chăm làm,
Thì mai sau sẽ giỏi dang giúp đời.
Nước nhà mong đợi con ơi,
Hãy luôn ghi nhớ những lời thầy khuyên.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa.
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Tay bưng dĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt xuống giếng ngọc, hạt ra ruộng cày.
Thôi thà đừng biết cho xong,
Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Tròng trành như nón không quay,
Như thuyền không lái như ai không chồng.
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như mảnh gỗ long đinh.
Gỗ long đinh anh còn chữa được,
Chớ không chồng chạy ngược chạy xuôi,
Không chồng khổ lắm chị em ơi!
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền. (khăng khăng đợi thuyền.)
Tiếc thay hột gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục, lại vần than rơm.
Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.
Tóc mai sợi vắn sợi dài,
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm.
Trách ai tính chuyện đa đoan,
Đã hái được mận lại toan bẻ đào.
Trách người quân tử vô danh,
Chơi hoa xong lại bẻ cành bán rao.
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Thân tui thui thủi một mình,
Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.
Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng,
Tôi xin được dạo cung đàn tình chung.
Thức khuya mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người có nhân.
- Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu co người nào nghe.
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Thân em như cá giữa rào,
Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai?
Thân em như cam quýt bưởi bòng
Ngoài tuy cay đắng trong lòng ngọt ngon.
Thân em như con hạc đầu đình,
Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay.
Thân em như ớt chín cây,
Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng.
Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Thân em như miếng cau khô,
Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày.
Thân em như chiếc chổi đầu hè,
Để anh khuya sớm đi về chùi chân.
Thân em như cái cọc rào,
Mọt thì anh đổi, cớ sao anh phiền.
Thân em như cái sập vàng,
Anh như manh chiếu rách giữa đàng bỏ quên.
Lạy trời cho gió cả lên,
Cho manh chiếu rách trải trên sập vàng.
Thân em như trái xoài trên cây,
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc,
Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành,
Một mai rơi xuống biết đành vào tay ai?
Thân em như rau muống dưới hồ,
Nay chìm mai nổi biết ngày mô cho thành?
Thân em như đóa hoa rơi,
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?
Thân em như cánh hoa hồng,
Lấy phải thằng chồng như đống cỏ khô.
Thân em như cá trong lờ,
Hết phương vùng vẫy biết nhờ nơi đâu.
Thân em đi lấy chồng chung,
Khác nào như cái bung xung chui đầu.
Thân em như quả dưa tây,
Lâu lâu anh bóp cho lây nỗi buồn.
Thân em như thể cánh bèo,
Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi.
Thân em vất vả trăm bề,
Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu.
Có lược chẳng kịp chải đầu,
Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn.
Thân em như cột đình trung,
Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi.
Thân em như cúc mọc bờ rào,
Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông.
Thân em như miếng bánh xèo,
Nằm trong chạn bếp... biết mèo nào tha.
Thân em như tấm lụa điều,
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương.
Thân em như cá trong bồn,
Không ăn có chịu, tiếng đồn oan chưa!
Thân em như cái chuông vàng,
Để trong thành nội có ngàn quân canh.
Thân anh như thể cái chày,
Bỏ lăn bỏ lóc chờ ngày dộng chuông.
Thân em chẳng đáng mấy tiền,
Vì tình em nặng, mấy nghìn cũng mua.
Thân em như mấy củ khoai,
Sáng sáng anh đói, anh nhai đỡ lòng.
Thân em như cỏ ngoài đồng,
Buồn thì anh nhổ, anh trồng rau răm.
Thân em như cánh chuồn chuồn,
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.
Thân em như giọt nắng xuân,
Mơ vào cửa phủ thấm vần thơ anh.
Thanh Trì có bánh cuốn ngon,
Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng.
Thanh Trì cảnh đẹp người đông,
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.
Trầu Bà Điểm xé ra nửa lá,
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi,
Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
Hay là anh quyết ở đời với em?
Thương thay thân phận con rùa,
Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia.
Thương thay cây quê giữa rừng,
Cay nồng ai biết, ngát lừng ai hay.
Thương thay thân phận đàn bà,
Hơn hai, ba tuổi vẫn là đàn em.
Trầu Đồng Nai trầu ăn nhả bã,
Thuốc Đồng Môn thuốc hút phà hơi.
Trầu nồng thuốc thắm ai ơi,
Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi, ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ, thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.
Ruộng thấp đóng một gàu giai,
Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bây giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng.
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.G
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê.
Một mai gặt lúa đem về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Thằng Sang nói chuyện lung tung
Thằng Trung nói chuyện mọi người dễ nghe
thằng Sang như con chó đẻ
Nó ngu hơn cả thằng điên giữa đường
U[sửa]
Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn ngây thơ
Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.
Ước gì anh hóa ra gương,
Để cho em cứ ngày thường em soi.
Ước gì anh hóa ra cơi,
Để cho em đựng cau tươi trầu vàng.
Uốn tre uốn thuở còn măng,
Dạy vợ dạy thuở băn khoăn mới về.
Ước gì sông hẹp một gang,
Bắc cầu trải gấm cho chàng sang chơi.
V[sửa]
Về ăn bánh đúc lá đa,
Người ơi người hỡi công cha ngày ngày.
Văn chương đựng không đầy lá mít,
Võ thì đá không bể nổi mảnh sành,
Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi.
Bảng đề không biết chữ chi,
Mài nghiên, mút bút có khi hết ngày.
Ví dầu dượng cháu người dưng,
Cháu cho dượng lấy dượng cưng suốt đời.
Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ, học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta lại quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nữa mai lúa chín đầy đồng,
Gặp về đập sảy bõ công cấy cày.
X[sửa]
Xa xôi em chớ ngại ngùng,
Xa người, xa tiếng nhưng lòng không xa.
Xấu xa cũng thế chồng ta,
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
Y[sửa]
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.
Yêu nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau cởi áo trao nhau,
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
Yêu nhau củ ấu cũng tròn,
Ghét nhau thì củ bồ hòn cũng vuông.
Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
Những bài ca dao khác[sửa]
- Tiền trao cháo múc
Không tiền cháo trút trở ra
Tin nhau buôn bán cùng phịch nhau
Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời
Thay gì lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang
Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền
Mẹ già như chuối ba hương,
Như cơm nếp mật, như đường mía lau.
Đường mía lau càng lâu càng ngát,
Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.
Ba hương lây lất tháng ngày,
Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.
Mẹ già như áng mây trôi,
Như sương trên cỏ, như lời hát ru.
Lời hát ru vi vu trong gió,
Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan.
Mây trôi lãng đãng trên ngàn,
Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.
Xem tiếp[sửa]
- Ca dao Việt Nam châm biếm, hài hước
- Ca dao Việt Nam về tình yêu quê hương, đất nước, con người
- Ca dao Việt Nam về quan hệ xã hội
- Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình
Cần Thơ là tỉnh,
Cao Lãnh là quê,
Anh đi lục tỉnh bốn bề,
Mải đi buôn bán chẳng về thăm em.
- Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,
Anh có thương em, xin sắm một con đò, Để em qua lại mua cò gởi thơ.
- Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em, cho bạc cho tiền,
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.
- Con trai trong Quảng ra thi,
Thấy con gái Huế chân đi không đành.
- Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
- Chỉ điều xe tám, đậu tư,
Anh đi Gia Định thư từ cho em.
- Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Chợ Sài Gòn cẩn đá
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng
Giã em xứ sở vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô.
tk
Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi. Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc. Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.
Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.
Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc được ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên.
Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.
Như ta biết, cáo cùng với hịch, chiếu là những văn bản có tính chất công vụ hành chính từ trên ban truyền hoặc trình bày, giải thích một chủ trương hoặc công bố một sự kiện. Ở đây, Nguyễn Trãi dùng từ đại cáo vì sự kiện mà bài văn nói đến là một sự kiện lớn: công cuộc bình Ngô. Đòi hỏi ở một bài cáo nói riêng, một bài văn nghị luận nói chung phải là sự chặt chẽ đã đành, trong trường hợp này, tác giả vừa lược thuật chiến tranh vừa bàn luận về chiến tranh. Nó vừa là lịch sử vừa là tư tưởng. Làm thế nào phối hợp được cái bề nổi và chiều sâu hàm ẩn ấy, điều này quả không đơn giản chút nào. Hiện diện bằng câu chữ thì bài văn gồm có bốn phần: chân dung quốc gia Đại Việt; tội ác của quân thù; cuộc dấy binh thắng lợi; một trang sử mới mở ra, ấy là theo trình tự của loại văn miêu tả, tự sự thông thường. Dựa vào đó mà phân tích không phải là không có lí. Nhưng bài văn còn một tầng nghĩa thứ hai là chuyên chở tư tưởng của người viết. Chính tư tưởng (mạch chìm) của người viết mới tạo ra cho bài văn cái ý nghĩa kép làm cho câu, chữ toả sáng, lung linh, rung động lòng người từ đó đến nay, xứng đáng là một "thiên cổ hùng văn" mà người xưa ca ngợi.
Đặt đoạn một của bài văn trong kết cấu chung, vấn đề cần phân tích để rút ra: sự tồn tại của quốc gia Đại Việt là một chân lí vĩnh hằng. Quốc gia ấy có tư tưởng riêng, có sức mạnh riêng, nghĩa là những yếu tố tinh thần nằm trong một hệ thống song hành cùng với các yếu tố vật chất như địa lí, đất đai. Vậy, tư tưởng riêng ấy là gì? Đừng vội trả lời rằng đó là đạo lí nhân nghĩa, dù câu văn trong bài cáo là "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Bởi nhân nghĩa vốn là học thuyết của Nho gia nói về quan hộ đối xử giữa con người với con người. Nhưng đến Nguyễn Trãi, nó được nâng lên, được mở rộng ra trong một quan hệ khác: giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Cũng như sau này, cách Nguyễn Trãi năm thế kỉ, Hồ Chí Minh, trong Tuyên ngôn Độc lập đã "suy rộng ra" ("Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là..."). Từ quyền sống của con người cá thể, từ đạo lí mà con người cá thể ấy nên theo mà "suy rộng ra" như vậy là hợp lí với lô gích của tư duy, nhất là nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta, một dân tộc vốn là đối tượng nhòm ngó của bao nhiêu thế lực bên ngoài từ đông sang tây, từ nam đến bắc. Nhân nghĩa là trái với bạo ngược. Nhân nghĩa là tình thương và lẽ phải hướng về phía nhân dân. "Trừ bạo" vì "yên dân" là nhân nghĩa, đó là nói chung. Còn nói riêng, khi đất nước bị xâm lăng, vì thương dân (nhân), vì việc phải, nên làm (nghĩa), quân dội ấy trở thành "quân điếu phạt". Nhân nghĩa không còn là một khái niệm khoan dung mà là trừ ác, có trừ ác mới đạt được cái đích yên dân. Tính chặt chẽ trong lập luận nổi bật hẳn' lên giữa hai khía cạnh tướng như đối lập mà thống nhất. Hai câu văn như hàm súc một chân lí thiêng liêng, là người nói mà như là trời nói, nghĩa là cùng một thứ "sách trời" (hai chữ thiên thư trong Nam quốc sơn hà). Chính sự mở rộng về khái niệm nhân nghĩa này, Nguyễn Trãi đã đưa được nó vào một khái niệm rộng hơn : nền văn hiến. Đất nước có chủ quyển không chỉ dựa vào yếu tố lịch sử, đất đai, mà chủ yếu là đất nước ấy thực sự có một nền văn hiến. Đó là dấu hiệu của một nền văn minh. Nền văn hoá phi vật thể này chính là sự bổ sung quan trọng cho tinh thần dân tộc. Quốc gia Đại Việt không chỉ có "Núi sông bờ cõi đã chia" (dùng lại ý trong bài Nam quốc sơn hà) mà còn có "Phong tục Bắc Nam cũng khác". Cái khác ấy phải chăng là ở chỗ chúng ta, dân tộc ta đã nâng khái niệm nhân nghĩa thành lẽ sống, thành đạo lí, thành bản lĩnh, cốt cách riêng của mình. Bức chân dung tinh thần của quốc gia Đại Việt có phần chìm chính là ở chỗ đó. Và cũng chính là vì lẽ đó mà Nguyễn Trãi có thể tự hào: một nước nhỏ mà có thể sánh vai, ngang hàng với một nước lớn:" Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần hao đời gây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương".
So với câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" đời Lí, niềm tự hào, tự tôn đã nâng lên một bậc, nâng lên bằng một ý thức văn hoá hẳn hoi. Cái linh, cái hồn vía của "địa linh" đã tạo ra "nhân kiệt" là lẽ đương nhiên như thế. Cách nhìn vào Jịch sử dân tộc bằng cái nhìn như thế là có chiều sâu, đảm bảo được sức sống trường tồn không gì khuất phục được. Đoạn văn trần thuật, đúng hơn là tự thuật ấy nếu hiểu sâu xa thì có đến hai lớp nghĩa: giữa các triều đại phương Nam và phương Bắc không chỉ có sự tồn tại ngang hàng mà còn có lí do để có sự tồn tại ngang hàng. Muốn tồn tại ngang hàng, quốc gia Đại Việt đã trả bằng máu của mình, nhưng dù có thế, chúng ta đã "thà hi sinh tất cả" (chữ của Hổ Chí Minh) để đánh đổi lấy chủ quyền, độc lập, tự do. Còn một điều nữa: nếu tính toán, cân đong một cách máy móc, bình quân thì lịch sử của mảnh đất phương Nam làm sao có độ dài tương đương lịch sử vùng đất phương Bắc ? Điều mà Nguyễn Trãi nói là "bao đời xây nền độc lập", hay "Như nước Đại Việt ta từ trước", hoặc "Vốn xưng nền văn hiến đã lâu" thực thì chỉ mấy trăm năm làm sao có thể sánh vai với lịch sứ mấy ngàn năm tính từ thời Xuân thu - Chiến quốc ? Sự thiếu hụt về độ dài vật lí ấy đã có niềm kiêu hãnh về tâm lí bù vào để cán cân không còn nghiêng lệch. Nó có đủ độ cân bằng. Đoạn văn không hề có ý định chứng minh (vì chỉ có mục đích trần thuật) mà có tác dụng như một sự tự phản biện (hỏi và đáp) một cách hùng hồn, ấy là do âm vang của lòng yêu nước tự thân lên tiếng. Ấy là tiếng nói tự bên trong, cái ý ở ngoài lời, lặn sâu dưới mặt bằng câu chữ.
Đoạn văn thực sự có mục đích chứng minh bắt đầu từ hai chữ "Vậy nên":
Vậy nên : "Lưu Cung tham công nên thất hại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong..."
Nhưng nó chứng minh cho cái gì ? Có lẽ cả hai, cả tư tưởng nhân nghĩa, một đạo lí làm người, ngọn cờ của đội quân "điếu phạt", cả chủ quyển dân tộc dựa trên tư tưởng ấy, nghĩa là dựa trên nền tảng của một "nền văn hiến đã lâu". Cuộc dụng đầu lịch sử giữa kẻ phi nghĩa, bất nhân với quốc gia Đại Việt là trên tinh thần ấy. Kẻ thù "thất bại", "tiêu vong" vì động cơ ích kỉ, vì "thích lớn", "tham công". Dựa vào tướng giỏi, quân đông, không "lấy nhân nghĩa làm gốc", mà chỉ lấy "trí dũng làm cành", hậu quả ấy không thể nào tránh khỏi. Ở đây vừa có cái nguyên cớ của sự bại vong, có cả chứng tích của sự bại vong như những hiện vật trong viện bảo tàng, với kẻ địch là một sự nhục nhã muôn đời khôn rửa, tiếng xấu còn ghi, còn với ta, đó là minh chứng cho một lẽ phái hùng hồn mà dân tộc Đại Việt đã gửi trọn niềm tin vào đó (tất nhiên còn là tinh thần xả thân, ý thức và hành động xả thân - như cách nói của Trần Quốc Tuấn ("Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa"). Bạch Đằng, Hàm Tử với lịch sử dân tộc như những dấu son chói lọi làm phấn chấn lòng người bao nhiêu thì cũng những địa danh đó, với kẻ địch, bao nhiêu tham vọng, danh dự bị vĩnh viễn chôn vùi. Nhưng còn đáng nói thêm : lời tiên tri (hai câu đầu bài cáo) đã có ứng nghiệm theo luật quả báo (nhân nào quả ấy) tức thời. Cái chết của Ô Mã, của Toa Đô với chúng là đột ngột, bất ngờ, không sao hiểu nổi. Ngược lại cái chết "bất đắc kì tử" ấy, chí chúng ta hiểu : điều gì xảy ra tất phải xảy ra theo luật định, mệnh trời. Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đợi cáo không dài, tuy vậy, nó vẫn là điểm tựa, là nền móng lí luận cho toàn bài. Nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của kẻ dẫn đường từ nơi xuất phát. Đoạn vãn ấy có sức khái quát rất cao: biến những gì đã xảy ra thành những quy luật vận hành. Người thắng kẻ thua là do nghĩ và làm thuận chiều hay ngược chiều với nó. Khép lại đoạn văn bằng hai câu "Việc xưa xem xét - Chứng cớ còn ghi", Nguyễn Trãi muốn biến lời nói của mình thành lời của người chép sử, biến cái chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng cá biệt thành quy luật muôn đời để mọi tính toán của con người hãy soi mình vào đó. Bể nổi của lời văn là sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thìa một đạo lí, một tư tưởng, một lẽ phải làm người: nhân nghĩa.