Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sinh | Nguyễn Văn Cao 15 tháng 11 năm 1923 Hải Phòng, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương |
---|---|
Mất | 10 tháng 7, 1995 (71 tuổi) Hà Nội, Việt Nam |
Quốc tịch | Việt Nam |
Dân tộc | Kinh |
Nghề nghiệp | Nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ, chiến sĩ cách mạng |
Vợ | Nghiêm Thúy Băng |
Con cái | năm con (3 con trai, con cả là Văn Thao) |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Giai đoạn sáng tác | Tân nhạc Việt Nam |
Ca khúc tiêu biểu | Tiến quân ca, Buồn tàn thu, Trường ca Sông Lô, Làng tôi, Suối mơ, Trương Chi, Thiên Thai, Bến xuân (Đàn chim Việt), Cung đàn xưa, Mùa xuân đầu tiên |
Sự nghiệp văn học | |
Bút danh | Người sông Ngự |
Giai đoạn sáng tác | Thơ hiện đại Việt Nam |
Tác phẩm nổi bật | Những người trên cửa biển(trường ca thơ), Lá (tập thơ), Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (bài thơ), Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc (bài thơ) |
Sự nghiệp hội họa | |
Giai đoạn sáng tác | Mỹ thuật hiện đại Việt Nam |
Đào tạo | Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Hk tốt |
mk ko ke dc | k mik nha |
các nốt nhạc là đồ ,rê ,mi,pha,son,la,si | thank you |
bye | chuc bn hok tot |
*Mái trường của em
Mái trường thân thiện của em
Mái trường thân thiện của em
Công ơn người thầy dìu dắt sớm hôm.
Em mến yêu mái trường của em, mái trường của em.
Tháng ngày, em sẽ, gắng công học hành, gắng công học hành.
Nghĩa tình thầy cô
Lòng em ghi nhớ...
Ơn cô thầy của em.
*Quê em
Quê nhà mỗi ngày đẹp hơn
Quê nhà mỗi ngày đẹp hơn
Quê hương từng ngày đổi mới sáng tươi.
Em mến yêu xóm làng của em,xóm làng của em
Tháng ngày… em sẽ gắng chăm học hành, gắng chăm học hành,
Muốn rằng ngày mai… ngày mai khôn lớn… em xây dựng làng quê.
*Mùa xuân quê em
Xuân về trên mọi miền quê
Xuân về trên mọi miền quê
Bao nhiêu là người nô nức đón xâun
Hoa khắp nơi đón mừng mùa xuân, đón chào mùa xuân.
Bao loài hoa quý ngát hương thơm lừng, ngát hương thơm lừng
Ý rằng cầu cho.. cầu cho cây tốt tươi đón mừng mùa xuân.
#Trang
Ko đăng những câu hỏi ko liên quan đến Toán , tiếng Việt và tiếng Anh
Hok tốt
# MissyGirl #
I. Đôi nét về tác giả Tô Hoài
- Tô Hoài (1920 - 2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen.
- Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).
- Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta.
- Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường.
- Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận…
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941)
- O chuột (tập truyện ngắn, 1942)
- Cỏ dại (hồi ký, 1944)
- Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953)
- Tự truyện (1978)
- Quê nhà (tiểu thuyết, 1981)
- Cát bụi chân ai (hồi ký, 1992)
- Chiều chiều (tiểu thuyết, 1999)
- Chuyện cũ Hà Nội (ký sự, 2010)...
II. Giới thiệu về Bài học đường đời đầu tiên
1. Xuất xứ
- Bài học đường đời đầu tiên trích trong chương I của truyện Dế Mèn phiêu lưu kí.
- Tên của đoạn trích do người biên soạn SGK đặt.
- Dế Mèn phiêu lưu kí được in lần đầu năm 1941, là tác phẩm đặc sắc nhất và nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Truyện gồm mười chương, kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật chính là chú Dế Mèn.
2. Bố cục
Gồm 4 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “cũng không thể làm lại được”: Dế Mèn giới thiệu về bản thân.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Tôi về, không chút bận tâm”. Câu chuyện về người bạn hàng xóm là Dế Choắt.
- Phần 3. Tiếp theo đến “cảnh đau khổ vừa gây ra”. Dế Mèn trêu chị Cốc khiến Dế Choắt phải chịu oan.
- Phần 4. Còn lại. Bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn.
3. Tóm tắt
Dế Mèn là một chú dế cường tráng bởi biết ăn uống điều độ. Tuy nhiên, cậu chàng lại có tính kiêu căng, luôn nghĩ mình “có thể sắp đứng đầu thiên hạ”. Dế Mèn luôn coi thường những người xung quanh, đặc biệt là Dế Choắt - người bạn hàng xóm gầy gò và yếu ớt. Một lần, Dế Mèn bày trò trêu chị Cốc khiến cho Dế Choắt phải chịu oan. Choắt bị chị Cốc mổ đến kiệt sức. Trước khi chết, Choắt khuyên Dế Mèn bỏ thói kiêu căng của mình. Dế Mèn vô cùng ân hận và nhận ra bài học đường đời đầu tiên của mình.
Xem thêm tại Tóm tắt Bài học đường đời đầu tiên
Tổng kết:
- Nội dung: Qua đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên, tác muốn gửi gắm bài học ý nghĩa: “ Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có đầu óc mà không biết nghĩa sớm muộn rồi cũng mang vạ vào thân mình”.
- Nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nhân vật, sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa…
1.Tô Hoài (1920-2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội
-
Sự nghiệp sáng tác
- Tô Hoài viết văn từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Ông có khối lượng tác phẩm phong phú và đa dạng, gồm nhiều thể loại
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật
2.Bài học đường đời đầu tiên trích trong chương I của truyện Dế Mèn phiêu lưu kí.Năm 1941
Thể loại:tiểu thuyết đồng thoại- loại truyện dành cho thiếu nhi.
Tốm tắt:Dế Mèn là chàng dế thanh niên cường tráng biết ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực. Tuy nhiên Dế Mèn tính tình kiêu căng, tự phụ luôn nghĩ mình “là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ”. Bởi thế mà Dế Mèn không chịu giúp đỡ Dế Choắt- người hàng xóm trạc tuổi Dế Mèn với vẻ ngoài ốm yếu, gầy gò như gã nghiện thuốc phiện. Dế Mèn vì thiếu suy nghĩ, lại thêm tính xốc nổi đã bày trò nghịch dại trêu chị Cốc khiến Dế Choắt chết oan. Trước khi chết, Dế Choắt tha lỗi và khuyên Dế Mèn bỏ thói hung hăng, bậy bạ. Dế Mèn sau khi chôn cất Dế Choắt vô cùng ân hận và suy nghĩ về bài học đường đời đầu tiên.
3.Có vì truyện đồng thoại là một thể loại văn học dành cho thiếu nhi, lấy loài vật làm nhân vật, lúc nào cũng thích hợp. Nhân vật trong truyện đồng thoại được nhân cách hóa trên cơ sở đảm bảo “không thoát li sinh hoạt thật có của loài vật”
Anh đi lạc trong sóng gió cuộc đời
Nào biết đâu sớm mai liệu bình yên có tới?
Âu lo chạy theo những ánh sao đêm
Ngày cứ trôi chớp mắt thành phố đã sáng đèn.
Ta cứ lặng lẽ chạy thật mau
Yêu thương chẳng nói kịp thành câu
Biết đâu liệu mai còn thấy nhau?
Thức giấc để anh còn được thấy
Ánh mắt của em nhẹ nhìn anh
Đôi tay này sẽ không xa rời.
[Chorus:]
Tạm gác hết những âu lo lại
Cùng anh bước trên con đường
Ta sẽ không quay đầu
Để rồi phải tiếc nuối những chuyện cũ đã qua
Giữ trái tim luôn yên bình
Và quên hết những ưu phiền vấn vương
Cuộc đời này được bao lần nói yêu.
Anh biết nơi để quay về
Em biết những nơi phải đi
Anh biết chỗ trú chân dọc đường
Để tránh cơn mưa hạ đến mỗi chiều
Ta biết trao nhau ân cần
Biết mỗi khi vui buồn có nhau
Thời gian để ta trưởng thành với nhau.
Nhảy với anh đến khi đôi chân ta mỏi rã rời
Hát với anh những câu ca từ ngày xưa cũ
Thì thầm khẽ anh nghe em vẫn còn bao niềm mơ
Ôm lấy anh nghe mưa đầu mùa ghé chơi.
Một giây không thấy nhau như một đời này cô đơn quá
Trời mù mây bỗng xanh ngát xanh khi em khẽ cười
Một ngày anh biết hết nguyên do của những yên vui trong đời
Ngày mà duyên kiếp kia đưa ta gần lại với nhau.
[Rap:]
Bờ vai anh rộng đủ để che chở cho em
Was a boy now a man cho em
Từng đi lạc ở trong thế giới điên loạn ngoài kia
Và tình yêu em trao anh ngày ấy đã mang anh về bên em
Yêu em như a fat kid loves cake nhắm mắt cảm nhận tình yêu
Tan dịu ngọt trên môi khi em hôn môi anh đấy, yo
Không phải happy ending mỗi bình min
Tta viết thêm trang mới, nối dài câu chuyện mình.
Như trong mơ nơi xa kia xanh biếc xanh biếc
Thiên đàng bên em nơi đây anh biết anh biết
Bóng đêm đã qua yên bình
Có thêm chúng ta nghe lòng đàn từng câu ca
Cuộc đời này chẳng hề hối tiếc
Dẫu khó khăn khiến anh gục ngã
Anh biết em luôn ở đó nơi anh thuộc về.
Anh đi lạc trong sóng gió cuộc đời
Nào biết đâu sớm mai liệu bình yên có tới
Âu lo chạy theo những ánh sao đêm
Ngày cứ trôi chớp mắt thành phố đã sáng đèn
Ta cứ lặng lẽ chạy thật mau
Yêu thương chẳng nói kịp thành câu
Biết đâu liệu mai còn thấy nhau
Thức giấc để anh còn được thấy
Ánh mắt của em nhẹ nhìn anh
Đôi tay này sẽ không xa rời
Tạm gác hết những âu lo lại
Cùng anh bước trên con đường
Ta sẽ không quay đầu
Để rồi phải tiếc nuối những chuyện cũ đã qua
Giữ trái tim luôn yên bình
Và quên hết những ưu phiền vấn vương
Cuộc đời này được bao lần nói yêu
Anh biết nơi để quay về
Em biết nơi phải đi
Anh biết chỗ trú chân dọc đường
Để tránh cơn mưa hạ đến mỗi chiều
Ta biết trao nhau ân cần
Biết mỗi khi vui buồn có nhau
Thời gian để ta trưởng thành với nhau
Nhảy với anh…
hok tốt
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Đến cầu hôn có hai vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể Vua Hùng
Một người là Sơn Tinh - chúa vùng non cao. Một người làThuỷ Tinh - chúa vùng nước thẳm. Để lựa chọn được chàng rể xứng đáng, Vua Hùng bèn đặt ra điều kiện:"Ngày mai ai mang lễ vật gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng,voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi đến trước thi ta sẽ gả con gái cho”. Hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến truớc, cưới được Mị Nương.Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nồi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa gọi gió, dâng nước sông lên cuồn cuộn làm cho thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp thành dựng luỹ, ngăn chặn dòng lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ Tinh đuối sức phải chịu thua. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh vẫn làm mưa gió, bão lụt,dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng mang thất bại trở về.
Chúc bn học tốt.Thanks.
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Đến cầu hôn có hai vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể Vua Hùng.
Một người là Sơn Tinh - chúa vùng non cao. Một người là Thuỷ Tinh - chúa vùng nước thẳm. Để lựa chọn được chàng rể xứng đáng, Vua Hùng bèn đặt ra điều kiện: "Ngày mai ai mang lễ vật gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi đến trước thi ta sẽ gả con gái cho".
Hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến truớc, cưới được Mị Nương. Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nồi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa gọi gió, dâng nước sông lên cuồn cuộn làm cho thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp thành dựng luỹ, ngăn chặn dòng lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ Tinh đuối sức phải chịu thua. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh vẫn làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng mang thất bại trở về.
~HOk tốt~
Sự tích sông Công núi Cốc
Ngày xưa dưới chân Tam Đảo có một chàng trai nghèo sống bằng nghề kiếm củi, lầm lũi quanh năm suốt tháng mà chẳng đủ ăn, nên dân làng gọi tên chàng là Cốc. Vì nghèo, chẳng có cô gái nào dám lấy chàng. Lúc buồn, chàng chỉ có cây sáo làm bạn tâm tình.
Thủa ấy ở vùng Sông Đáy, Sông Gâm có một Quan Lang giàu có, người đến làm thuê đông nườm nượp, ai cũng hy vọng được làm rể nhà Quan Lang.
Cô con gái độc nhất của Quan Lang xinh đẹp, hát hay và múa dẻo nổi tiếng. Người ta quen gọi nàng là nàng Công. Đã mấy lần cha nàng tổ chức kén rể, nhưng rồi nàng vẫn "phòng không cô quạnh". Ai muốn làm rể Quan lang, phải làm công cho nhà Quan Lang 3 năm. Mãn hạn thì được gặp mặt nàng Công. Nếu nàng ưng ai thì Quan Lang cho cưới ngay. Nhưng nàng Công chưa biết ưng ai?
Vào một năm hạn hán mất mùa, chàng Cốc lần tìm đến nhà Quan Lang làm thuê. Thấy chàng hiền lành, thật thà Quan Lang giao cho chàng việc chăn đàn trâu trong rừng. Những lúc cô đơn, chàng chỉ biết gửi lòng mình vào cây sáo trúc. Tiếng sáo làm nàng Công xúc động tìm đến với chàng, khi biết chuyện, Quan lang vô cùng tức giận. Hắn lập âm mưu giết chàng Cốc, Sai chàng đến Lũng Phia lấy ngà voi, sừng tê giác, gạc nai về làm lễ vật đám cưới. Lũng Phia là khu rừng rậm rạp có nhiều thú dữ ăn thịt người. Xong được sự giúp đỡ của các loài thú rừng, chàng đã hoàn thành các điều kiện của Quan Lang đặt ra, hơn thế nữa chàng được Tiên ông ban cho chiếc lược và dặn "Nếu gặp nguy hiểm cứ bẻ răng lược bỏ lại phía sau".
Chàng Cốc trở về chòi canh trâu nhờ tiếng sáo nhắn gửi đến nàng Công lời hò hẹn. Nghe tiếng sáo quen, nàng nhảy lên lưng con ngựa hồng của cha phi vào rừng. Không thấy con gái, lại thấy mất ngựa hồng, Quan lang hò hét người ngựa đuổi bắt. Nàng Công và chàng Cốc cùng ngồi trên lưng ngựa hồng phóng vun vút như tên bay. Mỗi khi quân của Quan lang tới gần, chàng Cốc lại bẻ một răng lược ném lại phía sau. Chiếc răng lược vụt hiện thành một dãy núi ngăn bước tiến của chúng. Đêm khuya đến một vùng đất bằng, hai người xuống ngựa đốt lửa và nghỉ ngơi lấy sức.
Răng lược đã hết, quân của Quan Lang đuổi tới cùng, nàng Công than khóc cùng chàng Cốc và bảo chàng hãy một mình phi ngựa chốn về quê chờ ngày gặp lại. Hai người đớn đau chia tay, Chàng Cốc lên ngựa và ném lại chiếc sống lược còn lại. Mặt đất bỗng chốc nứt ra một vệt nứt dài và sâu. Vừa lúc đó Quan lang tới bắt nàng Công về.
Từ đó, hai người thương nhớ và chờ đợi nhau mà chẳng có cách nào tìm gặp nhau. Không thấy nàng Công tới, nhớ thương, tuyệt vọng chàng Cốc héo hon mà chết. Trời đất cảm thương hóa chàng thành một quả núi sừng sừng giữa trời. Thương nhớ chàng Cốc, nàng Công khóc ngày khóc đêm. Cho đến một ngày kia cả tấm thân nàng cũng hóa thành nước mắt. Nước mắt yêu thương chung thuỷ qua bao năm tháng thấm sâu vào đất, chảy thành dòng theo vết nứt tìm về núi Cốc.
Truyền thuyết để đời, vùng đất hai người đốt lửa sưởi đêm ấy sau này có tên là Yên Lãng để ghi kỷ niệm một đêm yên lành hạnh phúc của đôi trai gái. Còn đống than đượm lửa tình yêu son sắt ấy được đắp vùi giữ gìn, rồi trở thành mỏ than Núi Hồng bây giờ. Còn nước mắt nàng chảy thành dòng sông Công về vùng đất Tân Cương là quê hương Cốc, tạo nên hương vị chè ngọt thơm nổi tiếng mà chỉ vùng này có được.
Nhạc sĩ Văn Cao sinh ngày 15-11-1923 tại Thành phố Hải Phòng, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Thần Nông, cầm tinh con (giáp) lợn (Quý Hợi 1923). Văn Cao xếp hạng nổi tiếng thứ 1794 trên thế giới và thứ 21 trong danh sách Nhạc sĩ nổi tiếng.Nhạc sĩ Văn Cao đã trở nên quen thuộc với người yêu nhạc Việt nam. Ông chính là tác giả của nhạc phẩm "Tiến quân ca" nổi tiếng. Ông là một nhạc sĩ nổi tiếng, đồng thời là nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ có nhiều tác phẩm nghệ thuật mang giá trị cao.Nhạc sĩ Văn Cao trở thành một nhạc sĩ nổi bật của dòng nhạc kháng chiến với nhiều ca khúc đã quá phổ biến Nhạc sĩ Văn Cao Văn Cao hoc tiểu học ở trường Bonnal, học trung học tại trường Saint Josef.
Năm ông 15 tuổi, kinh tế gia đình sa sút nên ông phải nghỉ học khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.
Trong một chuyến đi vào miền Nam năm 1940, khi ở Huế, Văn Cao đã viết bài thơ đầu tay "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế".
Năm 1942, ông lên Hà Nội để theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhạc sĩ Văn Cao về làm phóng viên cho báo Lao động.
Năm 1946, nhạc sĩ Văn Cao được được giao nhiệm vụ chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó, ông được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập.
Cuối năm 1949, ông nghỉ việc ở báo Văn Nghệ và chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam.
Bài này ngắn hơn nè
Văn Cao (15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ người Việt Nam. Ông là tác giả của Tiến quân ca - quốc ca của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi,... ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, nhạc kháng chiến. Năm 1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh. Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định,..