Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nhân vật cáo trong đoạn trích “Nếu cậu muốn có một người bạn” khiến người đọc cảm thấy vô cùng thích thú. Cáo đã xuất hiện khi hoàng tử bé đang buồn bã, nằm dài trên cỏ khóc lóc vì phát hiện ra bông hồng của mình chỉ là một bông hoa tầm thường. Nó được xây dựng giống như một con người, trò chuyện với hoàng tử bé. Những lời nói của cáo đã giúp hoàng tử bé nhận ra nhiều điều ý nghĩa. Qua nhân vật này, người đọc cũng nhận ra nhiều bài học về tình bạn.
- Từ ghép: nhân vật, con người
- Từ láy: thích thú, khóc lóc.
Sau khi đọc xong đoạn trích “Nếu cậu muốn có một người bạn”, em cảm thấy ấn tượng nhất với nhân vật hoàng tử bé. Đó là một cậu bé hồn nhiên. Khi đến Trái Đất, cậu đã bị những bông hoa hồng rực rỡ thu hút. Cậu nghĩ đến bông hoa hồng ở hành tình của mình, thấy nó chẳng là gì cả. Đến khi gặp được cáo, nó đã giúp cậu hiểu ra ý nghĩa thật sự của tình bạn. Đó là sự rung cảm xuất phát từ trái tim. Hoàng tử bé cũng nhận ra sự liên hệ của mình với con cáo là nhờ sự cảm hóa. Cậu đã dành thời gian cùng với sự kiên nhẫn và dịu dàng để “cảm hóa” được nó. Hoàng tử bé cũng nhận ra trách nhiệm đối với bông hoa của mình - hay chính là trách nhiệm đối với những người bạn.
- Từ ghép: cậu bé, bông hoa
- Từ láy: rực rỡ, dịu dàng
TL
Hoàng tử bé (tên tiếng Pháp: Le Petit Prince), được xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry.
t i c k nha
hok tốt
TL
1. Phương thức biểu đạt chính : tự sự
2.Cảm hóa là : Làm cho người ta cảm phục cái hay, cái tốt của mình mà bỏ cái xấu để theo gương mình.
3. Đoạn trích "Nếu cậu muốn có một người bạn" thuộc chương XXI kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa hoàng tử bé và một con cáo trên trái đất. Nhan đề của đoạn trích do người biên soạn đặt. ... Cáo đã trò chuyện với hoàng tử bé về Trái Đất, và thế nào là cảm hóa. Nó yêu cầu cậu bé hãy cảm hóa mình.
4.Hoàng tử bé là hình ảnh gợi nhắc về tuổi thơ của mỗi người. Cậu đến Trái Đất để tìm kiếm những người bạn. Khi nhìn thấy những bông hoa hồng ở Trái Đất, cậu cảm thấy bông hoa ở hành tinh của mình chẳng là gì cả. Cuộc gặp gỡ với con cáo với bài học về sự “cảm hóa” đã giúp cậu nhận ra giá trị lớn lao của tình bạn. Đó là sự rung cảm xuất phát từ trái tim, trách nhiệm với những gì mình đã cảm hóa.
K cho mik nha
HT
TL:
1. Phương thức biểu đạt chính : tự sự
2.Cảm hóa là : Làm cho người ta cảm phục cái hay, cái tốt của mình mà bỏ cái xấu để theo gương mình.
3. Đoạn trích "Nếu cậu muốn có một người bạn" thuộc chương XXI kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa hoàng tử bé và một con cáo trên trái đất. Nhan đề của đoạn trích do người biên soạn đặt. ... Cáo đã trò chuyện với hoàng tử bé về Trái Đất, và thế nào là cảm hóa. Nó yêu cầu cậu bé hãy cảm hóa mình.
4.Hoàng tử bé là hình ảnh gợi nhắc về tuổi thơ của mỗi người. Cậu đến Trái Đất để tìm kiếm những người bạn. Khi nhìn thấy những bông hoa hồng ở Trái Đất, cậu cảm thấy bông hoa ở hành tinh của mình chẳng là gì cả. Cuộc gặp gỡ với con cáo với bài học về sự “cảm hóa” đã giúp cậu nhận ra giá trị lớn lao của tình bạn. Đó là sự rung cảm xuất phát từ trái tim, trách nhiệm với những gì mình đã cảm hóa.
^HT^
Đinh Tiên Hoàng , tên húy là Đinh Bộ Lĩnh hoặc có sách gọi Đinh Hoàn , là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam.
Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.[ Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
Bài làm
Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh 968-979) Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên rất thông minh, có khí phách và có tài thao lược. Thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân. Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
# Chúc bạn học tốt #
Ánh bình minh đã ló dạng từ lúc nào, tôi cuống cuồng chạy đến trường. Nhưng đến nơi, các dãy lớp học vẫn còn tờ mờ ngái ngủ. Thì ra lo lắng về bài kiểm tra toán hôm nay mà tôi đến sớm hơn lệ thường.
Đi dọc theo hành lang trên dãy lầu hai, tôi lẩm nhẩm những công thức, mường tượng những bài giải… Và cuối cùng mải mê ngắm những bông phượng nở từ lúc nào cũng không biết nữa.
Sau lưng nghe có tiếng người nói bằng một cái giọng kì kì, ảo ảo, là lạ. Tôi quay lại, nhìn vào lớp học trống trơn. Không một bóng người. Vậy mà tiếng thì thầm to nhỏ vẫn cứ đến tai tôi. Dường như ai đó không hề chú y đến xung quanh, và cũng chẳng hề bận tâm đến sự hiện diện của một kẻ khác đang nghe câu chuyện của họ.
– Tôi không ngờ số phận của tôi lại run rủi như thế này. Ôi, mới năm ngoái kia thôi, tôi còn nguyên lành, trơn tru và đẹp đẽ, chân cẳng tôi… Ôi, giờ không biết nó đã ở đâu rồi?… Tiếng của ai thều thào rên rỉ như nói một mình cho mình nghe vậy.
– Đừng buồn nữa Bàn à, có buồn thì sự cũng đã rồi. Tôi mới được chuyển từ dãy ghế bên kia sang, nên tình hình ở đây cũng còn lạ lẫm lắm. Mà cậu chắc còn có nhiều tâm sự đau khổ hơn tôi. Không biết rồi ngày mai đời tôi ở đây sẽ ra sao?
Thì ra cái bàn nằm chỏng chơ ở góc phòng đang nói chuyện với cái ghế đứng xiêu xọ ở bên cạnh. Cả hai đang than ngắn thở dài. Tôi đã nghĩ rằng mình nên rút lui vì nghe trộm là điều xấu hổ. Nhưng lời của bàn ghế khiến tôi tò mò và muốn hiểu cho ra chuyện.
– "Coi bộ mấy "ông tướng" ở lớp này quậy phá nhiều hơn ở lớp bên kia. Anh Bàn ạ, anh cứ dòm kĩ chiếc chân bên phải của tôi mà coi. Cả hai năm liền ở bên lớp kia tôi không hề bị một vết thương nào. Thế mà vừa được chuyển sang đây là các ông trời con này đã cầm lấy tôi một đầu mà kéo lê tôi trên sàn nhà bằng xi măng có nhiều hố lồi lõm. Đến sắt thép còn chẳng chịu nổi huống hồ chân cẳng nhà tụi mình chỉ làm bàng gỗ!".
– Ôi, đừng nói nữa chị Ghế à, nhớ đến cái hôm đó, tôi vẫn còn rợn gai ốc. Chân tôi bị gãy rồi mà tôi vẫn như thấy điều kinh khủng ấy diễn ra lần thứ hai. Ôi, chị kể mới khiếp chứ. Tôi nhìn chân chị cố nhón lên và thân chị run bần bật cùng với tiếng lồ rồ, kèn kẹt, tôi cũng muốn như ngất lịm.
Bàn hồi tưởng những giây phút kinh hoàng và xót xa cho bạn mình… Ghế trầm ngâm một lúc rồi chua chát nói:
– "Cứ nhìn cái cách tụi chúng xếp tôi không ngay hàng thẳng lối thế này, cứ nhìn đôi chân hụt hẫng cua tôi trên sàn nhà lỗ chỗ này… Tôi nghĩ đến một ngày mai chẳng có gì sáng sủa hơn anh đâu, Bàn ạ. Anh nghĩ coi, chỉ cần một chút nữa, cái cậu bé mập đùng và hay nô giỡn ngồi ở đây nó đứng một đầu và phía kia một kẻ khác nhảy lên mình tôi thì… Ôi, tôi không dám nghĩ tiếp nữa đâu…
Tiếng thở dài thườn thượt không biết là của Bàn hay Ghế. Chỉ nghe Bàn nói một câu gọn lỏn nhưng tuyệt vọng.
– Số phận chúng mình cũng tiêu đời thôi…
Rồi Bàn buông lời oán thán và kể lể, trong lúc Ghế chừng như rất muốn theo dõi câu chuyện:
– Tôi nghĩ từ lúc tôi còn là một cây xanh trên rừng với muôn tiếng chim ca, rồi sau đó chấp nhận vui vẻ cái nghĩa vụ phục vụ mọi người, tôi đã bị đốn để đưa về nhà máy gỗ. Chúng tôi được xẻ ra thành bao nhiêu là phiến. Anh em chúng tôi chia tay nhau. Phiêu dạt mãi mới đến xưởng mộc. Thấy bác thợ bào đục và trau chuốt cho tôi thành Bàn tôi đã rất mừng. Mừng hơn là đượe về với các bạn nhỏ và công việc học hành. Năm đầu những cô bé chào đón tôi bằng những bàn tay thon và với lời khen nức nở – "Ôi bàn mới quá, thơm mùi gỗ quá". Các cô dường như không bao giờ động nhẹ đến tôi. Mỗi lúc trực nhật để quét rác dưới chân, tôi cũng được khiêng nhẹ.
Vậy mà năm sau những cô bạn thân thiết ấy chuyển sang học phòng khác, tôi được giao phó cho một lũ quậy phá nghịch ngợm. Chúng viết lên mặt tôi chi chít những câu tục tĩu, rồi chúng cự nhau, lấy dao sắc rạch chàng chịt vào mặt tôi những hình vẽ lố bịch. Đến giờ ra chơi chúng ngồi lên tôi đến bốn năm đứa xô đẩy nhau, đập ầm ầm vào mặt tôi và hát những bài hát không phách điệu gì cả. Tôi đau đớn, căm giận và lo sợ vô cùng. Tôi linh cảm mình sẽ bị trọng thương. Và quả thực, trong một lần đuổi bắt nhau, mấy ông trời con ấy nhảy rầm rầm trên mặt tôi. Tôi cố gắng giữ bốn chân mình cho vững đề phòng thảm họa. Nhưng rồi chịu không nổi, tôi ngã rầm đập cạnh mặt xuống nền nhà. Và ngay lúc đó một sức nặng ghê gớm nhảy lên thanh ngang nối hai chân trước và chân sau của tôi. Thanh ngang gãy rắc và tôi nhói đau khắp cả bốn chân. Khi tỉnh lại thì đã thấy mình nằm một xó, buổi học đã tan và một chân tôi bị téc ra như muốn rời khỏi thân. Nghe nói rằng tụi chúng cũng có kiểm điểm nhau. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Ngày hôm kia một đứa bỗng đề nghị: "Cái chân Bàn này hay làm tụi mình bị vướng, hãy bẻ nó đi". Tưởng là một lời đùa tinh quái, ai ngờ buổi học tan, phòng vắng, cái chân tôi bị ba tên sát nhân ấy bẻ mất và không biết nó vứt chân ấy ở đâu. ?
Tiếng bước chân rầm rập lên cầu thang của học sinh đã náo động sự yên tĩnh. Tôi xuống lầu, còn nghe tiếng la hốt hoảng của Ghế: – "Anh Bàn ơi, làm sao bây giờ?"
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phú Lai – Quảng Điền – Thừa Thiên Huế, mất ngày 9/12/2002 tại Hà Nội. Ông thân sinh là một nhà nho nghèo nhưng rất yêu thơ, ham sưu tầm ca dao, tục ngữ. Từ nhỏ, Tố Hữu đã được cha dạy làm thơ theo lối cổ. Mẹ Tố Hữu là con của một nhà nho cũng rất yêu ca dao, dân ca xứ Huế và giàu lòng thương con. Tố Hữu mồ côi từ năm lên 12 tuổi, một năm sau lại phải xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Quê hương, gia đình cũng có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn thơ Tố Hữu.
Lớn lên trong cảnh “Phận nghèo, nước mất, dân nô lệ”, nhưng rất may Tố Hữu đã được Đảng giác ngộ dìu dắt. Năm 1983, ông được kết nạp Đảng. Ông đã từng bị thực dân cầm tù qua các nhà lao Thừa Thiên, Tây Nguyên… Năm 1945, ông là Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa ở Huế. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ vững những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chặt chẽ, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng “là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng”. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I – 1996.
Những chặng đường thơ của Tố Hữu,
Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cánh mạng nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
Tập “Từ ấy” (1937 – 1946): Gồm ba phần Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng, tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt động cách mạng của nhà thơ.
Máu lửa là tiếng reo náo nức của một tâm hồn được giác ngộ lý tưởng: Từ ấy… và rộn vang tiếng chim.
Nhờ đó, nhà thơ đã nhận ra được ách áp bức giai cấp, những bất công của xã hội và thân phận của con người lao khổ. Ông hướng tâm hồn mình đến cảm thông với những em bé mồ côi, lão đầy tớ, cô gái giang hồ, em bé đi ở và khơi dậy ở họ lòng căm thù, ý chí chiến đấu và niềm tin ở tương lai.
Xiềng xích là bản quyết tâm thư của người chiến sĩ cách mạng tự đặn lòng mình quyết không khuất phục trước uy lực và sự tàn bạo của kẻ thù (Trăng trối, Con cá chột nưa…) và luôn luôn tha thiết yêu đời, khát khao tự do và hành động. Đây là phần đặc sắc của tập thơ.
Giải phóng – Cách mạng tháng Tám thành công, nhà thơ say
sưa nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi, ngợi ca nền độc lập, ngây ngất trong “niềm vui bất tận” với cảm hứng dâng trào trước cuộc đổi đời vĩ đại của nhân dân, dân tộc.
Tập Việt Bắc (1947 – 1945)
Quân thù trở lại, cả dân tộc bước vào cuộc khống chiến anh dũng. Việt Bắc là “thủ đô kháng chiến”, nơi có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo toàn dân đánh giặc. Việt Bắc là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng và những con người bình dị mà anh hùng của cuộc kháng chiến (như các em thiếu nhi, các anh bộ đội, các chị phụ nữ, các bà mẹ… và trên tất cả, hình ảnh tập trung, tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc là hình ảnh Bác Hồ). Tập thơ còn ca ngợi những tình cảm điển hình của con người kháng chiến như tình yêu nước, tình yêu đồng bào, tình quân dân, tình cảm miền ngược với miền xuôi, lòng yêu thiên nhiên, kính yêu Đảng, Bác Hồ… và niềm tin tưởng ở ngày mai tươi sáng.
Vào giai đoạn cuối với chiến công Điện Biên, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng đã chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng với những cảm hửng sử thi mang hào khí thời đại, Việt Bắc là thành tựu xuất sắc nhất của văn học kháng chiến chống Pháp
Tập Gió lộng (1955-1961). Bước vào giai đoạn này cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng niềm Nam tiến tới thống nhất nước nhà:
Rộn ràng thay cảnh quê hương
Nửa công trường, nửa chiến trường xôn xao
Thơ Tố Hữu bám sát nhiệm vụ chính trị đó: Tập Gió lộng vừa thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, vừa bày tỏ tình cảm thiết tha với niềm Nam và ý chí thống nhất nước nhà, tình cảm quốc tế rộng lớn.
Trong niềm vui lớn với cuộc sống hiện tại, Tố Hữu không quên nghĩ về quá khứ để bày tỏ tình cảm biết ơn ông cha và những người đi trước mở đường. Và từ đó thấm thía ân tình cách mạng (Ba mươi năm đời ta có Đảng, Mẹ Tơm…).
Tập “Gió lộng” tiếp tục phát triển cảm hứng sử thi và khuynh hướng khái quát với một cái tôi trữ tình đa dạng hơn và một nghê thuật biểu hiện già dặn và nhuần nhị hơn.
Hai tập “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1972- 1977) là những chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm chống Mĩ quyết liệt và hào hùng của dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công, là lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng cả dân tộc “khắp thành thị thông thôn” vùng lên quyết đập “tan đầu Mĩ Ngụy”. Ra trận cũng dành hẳn một trường ca theo chân Bác để tái hiện hình ảnh Bác trên những chặng đường lịch sử trong hơn nửa thế kỉ.
Máu và hoa là những suy ngẫm của nhà thơ về những hi sinh to lớn của dân tộc (máu) để tạo nên những chiến công (hoa) chói lọi của lịch sử “Phải bao máu thấm trong lòng đất; Mới ánh hồng lên sắc tự hào”.
Thơ Tố Hữu những năm chống Mỹ cứu nước mang đậm tính chính luận và chất sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng anh hùng ca.
Từ năm 1978 lại đây, thơ Tố Hữu được tập hợp trong hai tập “Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999)
Trải qua những thăng trầm, những trải nghiệm trước cuộc đời, nhà thơ muốn bày tỏ những suy tư về cuộc sống, về lẽ đời, hướng tới những quy luật phổ quát và tìm kiếm những giá trị bền vững. Giọng thơ vì thế cũng trầm lắng, thấm đượm chất suy tưởng.
Thơ Tố Hữu là một bằng chứng sống cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và nghệ thuật. Con đường thơ của ông là con đường tìm tòi sự kết hợp hài hòa hai yếu tố, hai cội nguồn là dân tộc và cách mạng trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca. Với ngôn ngữ, thể thơ giàu tính đại chúng, dân tộc, cách mạng, thơ Tố Hữu đã truyền được cho hàng triệu độc giả niềm say mê lý tưởng cách mạng.
Với một sự nghiệp thơ phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã định hình cho mình một phong cách riêng.
"Sống là hành động, thơ cũng hành động. Với Tố Hữu thơ là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng, của sự sống " (Đặng Thai Mai). Đó là bí quyết thành công của thơ Tố Hữu và đó cùng là cội nguồn sâu xa tạo nên phong cách đặc sắc trong thơ Tố Hữu.
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, đồng thời là một chiến sĩ cách mạng, Vì vậy, đối với ông, thơ trước hết phải là phương tiện đắc lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho những nhiệm vụ chính trị được hình thành trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Với ông, thơ chính trị đã trở thành thơ trữ tình sâu sắc.
Tố Hữu ít nói đến đời tư, đời thường. Những vấn đề đời sống được nhà thơ đề cập đến chủ yếu trên phương diện chính trị. Ông ca ngợi lý tưởng, ca ngợi những con người mang lý tưởng cộng sản, biểu dương những tình cảm cách mạng, ca ngợi nhân dân ca ngợi đất nước. Những vấn đề chính trị ấy trở thành nguồn cảm hứng, nguồn cảm xúc chân thật, sâu xa và thành lẽ sống, niềm tin… Bởi vậy, với Tố Hữu chính trị trở thành cái riêng tư và được nhà thơ diễn đạt bằng ngôn ngữ tâm tình, ngôn ngữ của tình yêu, tình mẹ con, tình bạn bè một cách tự nhiên không gượng ép.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà thơ khẳng định lẽ sống của con người là con đường cách mạng. Đó là con đường duy nhất có thể giải thoát cho mọi số phận cá nhân, khỏi cảnh áp bức, đọa đầy đau khổ Như những con tàu, Những người không chết, Trăng trối, Con cả chột mia, Từ ấy.
Từ Việt Bắc trở đi, Tố Hữu thường chủ yếu đặt vấn đề lẽ sống của dân tộc, và tiếp đó là mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại.
Đi liền với lẽ sống lớn là những tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng: Niềm say mê lý tưởng, tình đồng chí, lòng yêu mến nhân dân, đất nước, ân nghĩa của cách mạng, của Đảng lãnh tụ, tình cảm quốc tế Ta, Việt Bắc, 30 năm, Mẹ Tơm, Nước Non… Sáng tháng Năm, Bác ơi, Miền Nam… Một nhành xuân… Bí… thơ. Thơ Tố Hữu ở những bài hay nhất thường là có sự kết hợp cả ba chủ đề lẽ sống lớn, niềm vui lớn và ân tình cách mạng Ta, Việt Bắc, Mẹ Tơm, Bác ơi, 30 năm…
Thơ Tố Hữu ở giai đoạn sau cách mạng mang khuynh hướng sử thi. Chủ yếu đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Cái "Tôi" trữ tình trong thơ Tố Hữu từ buổi đầu là cái "tôi" chiến sỹ, rồi đến cái "tôi" công dân, về sau là cái "tôi" nhân dân, dân tộc, cách mạng Ta đi tới, Việt Bắc, Nhiều bài thơ Xuân trong gió lộng và các bài thơ khác trong Ra trận… Nhận vật trữ tình của Tố Hữu là những con người đại diện cho những phẩm chất dân tộc, thậm chí mang tầm vóc lịch sử, thời đại: Hình tượng anh giải phóng quân Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý, Mẹ Suốt…
Cảm hứng của Tố Hữu là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự, đời tư. Nổi bật lên trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh dân tộc, cộng đồng chứ không phải vấn đề số phận cá nhân. Nói đúng hơn số phận cá nhân hòa vào số phận dân tộc, cộng đồng.
Về mặt nghệ thuật, thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn hướng về lý tưởng cộng sản và tương lai xã hội chủ nghĩa. Thể hiện cuộc sông bằng cảm quan ấy, thế giới hình tượng trong thơ Tố Hữu là thế giới của cái cao cả, cái lý tưởng, của ánh sáng, gió lộng, niềm tin.
Thơ Tố Hữu còn có giọng điệu rất dễ nhận ra đó là giọng điệu tâm tình, là tiếng nói của tình thương mến. Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu… Nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh” (Chế Lan Viên). Điều này dược thể hiện rõ nhất qua cách xưng hô, trò chuyện, tâm sự với đối tượng “anh em ơi” ,“ban đời ơi”, "đồng bào ơi", "anh vệ quốc quân ơi"… "anh chị em ơi”, "em ơi … cho đến cả thiên nhiên đất nước "Xuân ơi xuân", "Hương giang ơi!"… Giọng tâm tình, tiếng nói yêu thương này có liên quan đến chất Huế của hồn thơ Tố Hữu, nhưng chủ yếu là do quan hệ giữa nhà thơ và bạn đọc, do quan niệm của Tố Hữu về thơ "Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí".
Nghệ thuật thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc. Tính dân tộc thể hiện ở thế giới bình tượng, phong cảnh quê hương, đất nước thân thuộc, ở hình ảnh con người rất đỗi Việt Nam Tính dân tộc còn thể hiện ở việc Tố Hữu thể hiện, sử dụng các thể thơ mang đậm tính chất “truyền thống dân tộc như Lục bát (các bài thơ Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Nước non ngàn dặm… Kết hợp cả giọng thơ cổ điển và dân gian thể hiện những nội dung tình cảm cách
mạng mà có gốc rễ truyền thống, tinh thần dân tộc, làm phong phú cho thể thơ lục bát: Thơ 7 chữ của Tố Hữu Quê mẹ, Mẹ Tơm, Theo chân Bác, trang trọng, có màu sắc cổ điển nhưng vẫn biến hóa linh hoạt, diễn tả được nhiều trạng thái cảm xúc.
Về ngôn ngữ, Tố Hữu không mạnh ở sáng tạo từ mà thường sử dụng từ ngữ, lối nói quen thuộc với dân tộc, thậm chí cả những ước lệ, những so sánh ví von truyền thống, nhưng lại biểu hiện được nội dung mới của thời đại.
Về nhạc điệu, thơ Tô Hữu rất giàu nhạc điệu, một biểu hiện tính dân tộc của nghệ thuật ở bề sâu. Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng các từ láy, dùng các vần và phối hợp các thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ, tạo thành nhạc điệu, phong phú cho các câu thơ, diễn tả được cái nhạc điệu bên trong của tâm hồn, một nhạc điệu tâm tình mà bề sâu của nó là điệu cảm xúc của dân tộc, tâm hồn dân tộc Em ơi Ba Lan, Mẹ Tơm, Xuân 1961, Quê Mẹ, Nước non ngàn dặm…
Với những nét phong cách vừa phong phú vừa đa dạng, vừa sâu sắc, hấp dẫn nói trên, Tố Hữu rất xứng đáng là "Lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam".
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù Lai, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Truyền thống văn hóa, văn chương của quê hương và gia đình là những nhân tố quan trọng trong sự hình thành hồn thơ Tố Hữu.
Tố Hữu giác ngộ cách mạng từ khi còn là một thanh niên học sinh. Bắt gặp lý tưởng Đảng, nhà thơ đã hăng say hoạt động cách mạng với tất cả những tin tưởng say mê đến bồng bột.
Năm 1938 Tố Hữu được kết nạp Đảng.
1939 Tố Hữu bị thực dân bắt giam và giả qua nhiều nhà lao ở miền Trung và Tây Nguyên. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhà thơ .Tố Hữu hiểu được rằng dân thân vô là phải chịu tù đày, là thân sống chỉ coi còn một nửa, là súng kẻ tai gươm kề cổ.
Tháng 3 /1942 Tố Hữu vượt ngục thành Đắc Lây tìm ra Thanh Hóa bắt liên lạc với cách mạng trong thời gian này đã được mẹ Tơm nuôi giấu.
Tháng 8/1945 Tố Hữu đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền ngay trên thành phố quê hương.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc Tố Hữu đã liên tục giữ những nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
Năm 1996 ông được nhận giải thưởng Hồ chí mình về văn hóa nghệ thuật
Năm 2002 Tố Hữu qua đời ở tuổi 82
Hơn nửa thế kỷ làm thơ, Tố Hưu để lại nhiều tập thơ. Mỗi tập thơ đánh dấu một chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong thế kỷ 20.
Tố Hữu làm thơ chủ yếu để phục vụ chính trị, cách mạng và kháng chiến. Phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu có thể khái quát trong 4 điểm sau đây:
1: Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị
Cảm hứng chủ đạo trong thơ ông là những lời tâm huyết say mệ về một lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của đất nước và dân tộc trong kháng chiến
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”
2: Thơ Tố Hữu có khuynh hướng sử thi
Có thể nói đó là những bài chiến ca đấu, những khúc ca chiến trận vang đội âm hưởng anh hùng ca:
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
3: Giọng điệu tâm tình dịu ngọt là nét đặc sắc đậm đà trong thơ Tố Hữu
Tình quê hương, tình non nước, tình yêu Đảng, yêu Bác, tình mẹ con, tình đồng chí, đồng bào…là dư vị thiết tha, nồng ấm dào dạt trong thơ ông.
“Hương giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
4: Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc
Tố Hữu sử dụng nhiều thể thơ nhưng đặc sắc nhất, thành công nhất chính là thể thơ lục bát. Ngôn ngữ thơ thanh thoát, giàu vần điệu, nhạc điệu như cao dao, dân ca, như Truyện Kiều nên rất dễ ngâm, dễ thuộc.
“ Mình về mình có nhớ ta.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Nếu thơ ca là một dòng sông thì thơ Tố Hữu là một dòng sông xanh mà ta thương mến. Dòng sông ấy đang hợp lưu trong lòng ta.
TỪ KHÓA TÌM KIẾM
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Tố Hữu
Nêu hiểu biết của em cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Tố Hữu
Cuoc doi va su nghiep cua nha tho To Huu
Cuộc đời và sự nghiệp văn học nghệ thuật của Tố Hữu
Câu 1:
- PTBĐ chính: Tự sự
Câu 2:
- "Cảm hóa": khiến người khác trở nên tốt đẹp hơn, từ bỏ những điều xấu xa ở bản thân bằng tình cảm và hành động chân thành. ("Cáo" bị coi là con vật ranh mãnh, không mấy tốt đẹp, còn "Hoàng tử bé" lại là con người lương thiện, trong sáng, sẵn sàng làm bạn với cáo trong khi mọi người có suy nghĩ xấu về Cáo => hành động của "Hoàng tử bé" có thể cảm hóa được "Cáo")
- "Cảm hóa" ở câu chuyện trên có nghĩa là "kết bạn", trở nên gần gũi, gắn bó với nhau hơn, đồng điệu về cảm xúc, tâm hồn. (Cáo nói: Bạn làm ơn... cảm hóa mình đi!" nghĩa là rất muốn được trở thành bạn với Hoàng tử bé)
Câu 3:
Đoạn trích nói về sự "cảm hóa" của hai người bạn "Cáo" và "Hoàng tử bé"
Câu 4: (tìm trích thêm mấy câu trên bài xuống để viết đoạn dài ra nhaaa :))
DÀN Ý:
- Mở đoạn: Từ đoạn trích trên/ văn bản "Nếu muốn có một người bạn"/ ..., em thấy ấn tượng với/ những cảm nhận sâu sắc về tình bạn của Hoàng tử bé và con Cáo.
- Thân đoạn: "cảm hóa" để kết bạn
+ cần kiên nhẫn
+ "bạn thì không nói gì cả"; "lời nói là nguồn gốc của mọi sự hiểu lầm" => cần thấu hiểu, quan tâm từ mặt cảm xúc chân thành mà không cần nhiều lời nói...
+ dần dần xích lại hơn
=> Bài học đắt giá về tình bạn, về cách kết bạn
- Kết bài: Ứng dụng bài học vào cuộc sống
Trong văn bản Sông nước Cà Mau, dưới ngòi bút tài tình của nhà văn Đoàn Giỏi, cả vùng sông nước Cà Mau hiện lên thật sinh động. Cảnh vật biến hoá, màu sắc biến hoá: màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ,... Những dòng sông, kênh, rạch, rừng đước và cả khu chợ Năm Căn nữa hiện lên vừa hùng vĩ, hoang sơ, vừa dạt dào sức sống, cảnh xa lạ mà vẫn gợi bao yêu mến, nhớ thương. Thiên nhiên Cà Mau bao la, hào phóng; con người Cà Mau mộc mạc, hồn hậu, dễ thương. Đọc những trang văn của Đoàn Giỏi, ta có cảm giác như đang đi giữa sông nước Cà Mau, tận hưởng hương rừng Cà Mau, đến chơi chợ Năm Căn, dừng lại, bước lên những ngôi nhà bè và mua một vài món quà lưu niệm. Cảm giác được chu du giữa cả một miền sông nước như thế mới thú vị biết bao!
Tóm tắt lý lịch Đoàn Giỏi
Nhà văn Đoàn Giỏi sinh ngày 17-5-1925 tại Tỉnh Tiền Giang, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, nước Việt Nam.
Tiểu sử Nhà văn Đoàn Giỏi
Đoàn Giỏi là một nhà văn Việt Nam, ông có một số bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư. Từ năm 1957, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong văn của Đoàn Giỏi người ta thấy thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện từ thực tế đến huyền bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ..
Tác phẩm "Đất rừng phương Nam" là một tác phẩm xuất sắc của ông, đây là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi.Cuốn sách xoay quanh cuộc đời của cậu bé An bị lưu lạc trong chiến tranh, được người dân cưu mang, trưởng thành ở vùng sông nước Nam Bộ. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba..
Nhạc sĩ Đoàn Giỏi qua đời ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ ngày 7 tháng 4 năm 2000, tên ông dược đặt cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
Tác phẩm truyện:
- Đường về gia hương
- Cá bống mú
- Đất rừng phương Nam
- Cuộc truy tầm kho vũ khí
Ký:
- Khí hùng đất nước
- Những dòng chữ máu Nam Kỳ 1976
- Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
- Cây đước Cà Mau
- Tết Nguyên Đán ở Nam Bộ
Truyện ký:
- Ngọn tầm vông
- Trần Văn Ơn
- Từ đất Tiền Giang
- Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày
- Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh
Tác phẩm thơ ca:
- Bến nước mười hai
- Truyện thằng Cồi
- Giữ vững niềm tin
Đoàn Giỏi thời trẻ
Đoàn Giỏi học trung học tại Trường trung học Mỹ Tho, sau đó theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá. Ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miên Nam từ năm (1949-1954).
=> LÀ MỘT NGƯỜI THÀNH CÔNG TRONG LĨNH VỰC VĂN CHƯƠNG & MỸ THUẬT
Tóm tắt lý lịch Đoàn Giỏi
Nhà văn Đoàn Giỏi sinh ngày 17-5-1925 tại Tỉnh Tiền Giang, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, nước Việt Nam.
Tiểu sử Nhà văn Đoàn Giỏi
Đoàn Giỏi là một nhà văn Việt Nam, ông có một số bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư. Từ năm 1957, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong văn của Đoàn Giỏi người ta thấy thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện từ thực tế đến huyền bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ..
Tác phẩm "Đất rừng phương Nam" là một tác phẩm xuất sắc của ông, đây là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi.Cuốn sách xoay quanh cuộc đời của cậu bé An bị lưu lạc trong chiến tranh, được người dân cưu mang, trưởng thành ở vùng sông nước Nam Bộ. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba..
Nhạc sĩ Đoàn Giỏi qua đời ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ ngày 7 tháng 4 năm 2000, tên ông dược đặt cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
Ăng-toan Đơ Xanh-tơ E-xu-pe-ri là nhà văn lớn người Pháp
- Là phi công và từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thứ hai
- Các đề tài của ông lấy từ những đề tài tài, cảm hứng từ những chuyến bay và cuộc sống cuả người phi công
- Ngòi bút đậm chất trữ tình, trong trẻo, giàu cảm hứng lãng mạn.