Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Khi nói đến những anh hùng cách mạng, những người đã hy sinh, cống hiến tuổi thanh xuân và cả cuộc đời cho hòa bình, cho độc lập, tự do của Tổ quốc thì người đầu tiên phải nhắc đến là Bác. Bác là một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Bác chính là người đã khai sáng con đường độc lập, tự do của nước nhà và cũng chính là người tạo nên hình hài nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hôm nay.
Ngày 05/06/1911, chuyến ra đi mang theo bao hoài bão và khát vọng lớn lao của một thanh niên 21 tuổi đã trở thành chuyến đi huyền thoại và là cột mốc quan trọng thay đổi vận mệnh nước nhà. Chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành bước lên con tàu với hai bàn tay trắng, với trái tim mang nặng nỗi đau mất nước, với quyết tâm cháy bỏng: khôi phục lại nước Việt, mang hòa bình, độc lập về cho Tổ quốc và mang tự do về với mọi người dân. Chàng trai ấy đã đi vào lịch sử và đã viết nên lịch sử.
Hành trình “Tìm đường cứu nước” của Bác luôn đầy những chông gai và thử thách, luôn đầy những gian khổ và hy sinh. Chúng ta hãy cùng lắng đọng với những dòng thơ trong tác phẩm “Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên để hiểu thế nào là nỗi lòng của một lãnh tụ và hiểu thế nào là những hy sinh.
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi
Hiểu sao hết "Người đi tìm hình của Nước"
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài, với nhiều nghề khác nhau, nhiều tên khác nhau, Bác đã phải chịu rất nhiều cực khổ và gian lao. Vậy mà, chỉ với một đoạn thơ, Chế Lan Viên đã vẽ nên một bức tranh khổng lồ, kéo dài khắp thế giới.
Cả bài thơ như tái hiện lại trước mắt người đọc những năm tháng bôn ba, khó nhọc của Bác nơi đất khách, quê người một cách sinh động và chân thật nhất.
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Tôi rất thích bài thơ này, đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và lần nào cũng đầm đìa nước mắt. Còn bạn, bạn có khóc không? Tôi nghĩ, dù là người có trái tim sắt đá nhất, khi nghe bài thơ này cũng không thể nào kìm nén được xúc động. Bởi lẽ, Bác luôn là người lo trước cái lo thiên hạ và vui sau cái vui thiên hạ. Bởi lẽ, nỗi đau mất nước luôn canh cánh trong lòng: “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc” và bởi lẽ lòng yêu nước của Người là không gì có thể so sánh nổi.
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Tôi tâm đắc và cảm động vô cùng giây phút Bác vui mừng và xúc động khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc. “Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin” đong sao hết niềm vui của Bác khi tiếp cận Luận cương của Lênin, đếm sao đầy những giọt nước mắt Người đã rơi vì nỗi đau dân tộc: “Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở - Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương”. Vậy mà, “Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”, có phải là điều kỳ lạ lắm không? Vâng, kỳ lạ là ở chỗ ấy, có nhiều người khi đọc qua sẽ đáp ngay rằng chủ thể ấy chính là Bác, Bác khóc chứ còn ai vào đây nữa? Nhưng nếu phân tích và tìm hiểu sâu hơn về bài thơ, điều thú vị nằm ở đó và nó tạo nên cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. Con đường cứu nước, chính là con đường khai sinh ra đất nước, là “đi tìm hình của nước” giống như tiêu đề bài thơ. “Phút khóc đầu tiên” đó chính là phút khóc chào đời, xin cho tôi mượn những lời bình của TS. Chu Văn Sơn về giây phút chào đời ấy: “Đất nước Việt Nam mới đã chính thức tượng hình trong Bác, đã có mặt trên đời vào thời điểm Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Phút khóc đầu tiên của nó, tiếng khóc chào đời của nước Việt Nam trứng nước đã chuyển hóa thành tiếng cười tột cùng sung sướng của nhà cách mạng”. Để rồi, khi Người mang Luận cương Lênin, mang ánh sáng cách mạng về quê nhà: “Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất - Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai” thì đất nước Việt Nam độc lập, tự do đã thực sự sản sinh từ đó.
Bác thấy:
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai
Toàn bộ bài thơ là sự xúc động của tác giả trước vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là việc khắc họa hình ảnh một con người siêu phàm nhưng bằng xương bằng thịt, bằng những biến cố lịch sử, bằng chính cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người.
Có phải vì từ lâu rồi Bác đã sống trong tim của mỗi người dân Việt nên tác phẩm này chiếm được cảm tình của độc giả? Hay bởi những câu thơ quá chân thật và đầy xúc cảm của nhà thơ? Tôi nghĩ có lẽ cả hai yếu tố này đều góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Cảm ơn nhà thơ Chế Lan Viên đã tái hiện sống động hình ảnh Bác Hồ chân thật, bình dị và gần gũi đến vậy. Cảm ơn Bác đã tạo nên hình hài đất nước, để hôm nay, cháu và những người đang ngồi đây không chỉ có hòa bình, cơm no, áo ấm, mà chúng cháu còn có thể tự hào nói rằng chúng cháu đang góp một phần công sức của mình để đưa nước Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Bác hằng mong ước.
Hơn lúc nào hết tôi muốn thét lên một cách tự hào rằng: “Tôi là người Việt Nam, tôi yêu dân tộc Việt Nam”.
Khi nói đến những anh hùng cách mạng, những người đã hy sinh, cống hiến tuổi thanh xuân và cả cuộc đời cho hòa bình, cho độc lập, tự do của Tổ quốc thì người đầu tiên phải nhắc đến là Bác. Bác là một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Bác chính là người đã khai sáng con đường độc lập, tự do của nước nhà và cũng chính là người tạo nên hình hài nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hôm nay.
Ngày 05/06/1911, chuyến ra đi mang theo bao hoài bão và khát vọng lớn lao của một thanh niên 21 tuổi đã trở thành chuyến đi huyền thoại và là cột mốc quan trọng thay đổi vận mệnh nước nhà. Chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành bước lên con tàu với hai bàn tay trắng, với trái tim mang nặng nỗi đau mất nước, với quyết tâm cháy bỏng: khôi phục lại nước Việt, mang hòa bình, độc lập về cho Tổ quốc và mang tự do về với mọi người dân. Chàng trai ấy đã đi vào lịch sử và đã viết nên lịch sử.
Hành trình “Tìm đường cứu nước” của Bác luôn đầy những chông gai và thử thách, luôn đầy những gian khổ và hy sinh. Chúng ta hãy cùng lắng đọng với những dòng thơ trong tác phẩm “Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên để hiểu thế nào là nỗi lòng của một lãnh tụ và hiểu thế nào là những hy sinh.
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi
Hiểu sao hết "Người đi tìm hình của Nước"
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài, với nhiều nghề khác nhau, nhiều tên khác nhau, Bác đã phải chịu rất nhiều cực khổ và gian lao. Vậy mà, chỉ với một đoạn thơ, Chế Lan Viên đã vẽ nên một bức tranh khổng lồ, kéo dài khắp thế giới.
Cả bài thơ như tái hiện lại trước mắt người đọc những năm tháng bôn ba, khó nhọc của Bác nơi đất khách, quê người một cách sinh động và chân thật nhất.
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Tôi rất thích bài thơ này, đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và lần nào cũng đầm đìa nước mắt. Còn bạn, bạn có khóc không? Tôi nghĩ, dù là người có trái tim sắt đá nhất, khi nghe bài thơ này cũng không thể nào kìm nén được xúc động. Bởi lẽ, Bác luôn là người lo trước cái lo thiên hạ và vui sau cái vui thiên hạ. Bởi lẽ, nỗi đau mất nước luôn canh cánh trong lòng: “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc” và bởi lẽ lòng yêu nước của Người là không gì có thể so sánh nổi.
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Tôi tâm đắc và cảm động vô cùng giây phút Bác vui mừng và xúc động khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc. “Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin” đong sao hết niềm vui của Bác khi tiếp cận Luận cương của Lênin, đếm sao đầy những giọt nước mắt Người đã rơi vì nỗi đau dân tộc: “Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở - Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương”. Vậy mà, “Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”, có phải là điều kỳ lạ lắm không? Vâng, kỳ lạ là ở chỗ ấy, có nhiều người khi đọc qua sẽ đáp ngay rằng chủ thể ấy chính là Bác, Bác khóc chứ còn ai vào đây nữa? Nhưng nếu phân tích và tìm hiểu sâu hơn về bài thơ, điều thú vị nằm ở đó và nó tạo nên cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. Con đường cứu nước, chính là con đường khai sinh ra đất nước, là “đi tìm hình của nước” giống như tiêu đề bài thơ. “Phút khóc đầu tiên” đó chính là phút khóc chào đời, xin cho tôi mượn những lời bình của TS. Chu Văn Sơn về giây phút chào đời ấy: “Đất nước Việt Nam mới đã chính thức tượng hình trong Bác, đã có mặt trên đời vào thời điểm Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Phút khóc đầu tiên của nó, tiếng khóc chào đời của nước Việt Nam trứng nước đã chuyển hóa thành tiếng cười tột cùng sung sướng của nhà cách mạng”. Để rồi, khi Người mang Luận cương Lênin, mang ánh sáng cách mạng về quê nhà: “Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất - Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai” thì đất nước Việt Nam độc lập, tự do đã thực sự sản sinh từ đó.
Bác thấy:
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai
Toàn bộ bài thơ là sự xúc động của tác giả trước vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là việc khắc họa hình ảnh một con người siêu phàm nhưng bằng xương bằng thịt, bằng những biến cố lịch sử, bằng chính cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người.
Có phải vì từ lâu rồi Bác đã sống trong tim của mỗi người dân Việt nên tác phẩm này chiếm được cảm tình của độc giả? Hay bởi những câu thơ quá chân thật và đầy xúc cảm của nhà thơ? Tôi nghĩ có lẽ cả hai yếu tố này đều góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Cảm ơn nhà thơ Chế Lan Viên đã tái hiện sống động hình ảnh Bác Hồ chân thật, bình dị và gần gũi đến vậy. Cảm ơn Bác đã tạo nên hình hài đất nước, để hôm nay, cháu và những người đang ngồi đây không chỉ có hòa bình, cơm no, áo ấm, mà chúng cháu còn có thể tự hào nói rằng chúng cháu đang góp một phần công sức của mình để đưa nước Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Bác hằng mong ước.
Hơn lúc nào hết tôi muốn thét lên một cách tự hào rằng: “Tôi là người Việt Nam, tôi yêu dân tộc Việt Nam”.
Chữa lỗi sai:
- Câu (1) người viết không phân định rõ thành phần trạng ngữ, chủ ngữ
+ Cách thứ nhất: bỏ từ “qua” ở đầu câu
+ Cách thứ hai: bỏ từ “của” thay vào bằng dấu phẩy.
+ Cách thứ ba: bỏ từ “đã cho” và thay vào đó bằng dấu phẩy
- Ở câu (2) cả câu chỉ là một cụm danh từ được phát triển dài mà chưa đủ thành phần chính. Sửa:
+ Thêm chủ ngữ thích hợp “đó là lòng tin tưởng…”
+ Thêm vị ngữ thích hợp, “lòng tin tưởng… đã được biểu hiện trong tác phẩm”
b, Câu (1) “Có được ngôi nhà đã làm cho bà sống hạnh phúc hơn” sau vì không phân định thành phần phụ đầu câu với chủ ngữ
Các câu sau đều đúng
c, Cả đoạn văn không có câu nào sai nhưng cái sai ở mối liên hệ, liên kết giữa các câu.
Các câu lộn, thiếu logic. Cần sắp xếp lại các câu các vế và thay đổi một số từ ngữ ngữ để ý đoạn mạch lạc, phát triển hợp lí
Thúy Kiều và Thúy Vân là con gái ông bà Vương Viên ngoại. Họ sống êm đềm, hạnh phúc cha mẹ. Họ đều xinh đẹp tuyệt vời. Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, vẻ đẹp của nàng khiến hoa ghen, liễu hờn. Thúy Vân có vẻ đẹp đoan trang, thùy mị. Về tài thì Kiều hơn hẳn Thúy Vân nhưng nàng đâu được hưởng hạnh phúc.
a. Phát hiện và sửa lỗi về ngữ pháp trong những câu sau
Câu đã cho |
Phát hiên và sửa lỗi |
Qua tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã cho thấy hình ảnh người phụ nữ nông thôn trong chế độ cũ. |
Người viết không phân định rõ các thành phần trạng ngữ và chủ ngữ. Kiểu sai này có những cách chữa như sau: + Bỏ từ “qua” ở đầu câu; + Bỏ từ “của” và thay vào đó bằng dấu phẩy; + Bỏ các từ “đã cho” và thay vào đó bằng dấu phẩy. |
Lòng tin tưởng sâu sắc của những thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung kích sẽ tiếp bước mình. |
Cả câu chỉ là một cụm danh từ được phát triển dài mà chưa đủ các thành phần chính. Kiểu sai này có những cách chữa như sau: + Thêm chủ ngữ thích hợp, ví dụ: “Đó là lòng tin tưởng...”', + Thêm vị ngữ thích hợp, ví dụ “Lòng tin tưởng... đã dược biểu hiện trong các tác phẩm”. |
b. Lựa chọn những câu văn đúng trong các câu văn sau:
(1) Có được ngôi nhà đã làm cho bà sống hạnh phúc hơn.
(2) Ngôi nhà đã làm cho bà sống hạnh phúc hơn.
(3) Có được ngôi nhà, bà đã sống hạnh phúc hơn.
(4) Ngôi nhà đã mang lại niềm vui, hạnh phúc cho cuộc sống của bà.
Câu (1) sai vì không phân định rõ thành phần phụ ở câu đầu với chủ ngữ, các câu sau đều đúng.
c. Xem đoạn văn mục 3c. SGK trang 66
Từng câu trong đoạn văn sau đều đúng, nhưng đoạn văn vẫn không có được tính thống nhất, chặt chẽ. Hãy phân tích lỗi và chữa lại.
Cái sai của đoạn văn chủ yếu ở mối liên hệ, liên kết giữa các câu. Sự sắp xếp các câu lộn xộn, thiếu lôgíc. Cần sắp xếp lại các câu, các vế câu và thay đổi một số từ ngữ để ý của đoạn mạch lạc, phát triển hợp lý. Có thể sửa như sau:
Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. Họ sống êm đềm dưới một mái nhà, hòa thuận và hạnh phúc cùng cha mẹ. Họ đều xinh đẹp tuyệt vời. Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp của nàng khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Còn Thúy Vân có nét đẹp đoan trang, thùy mị. Về tài thì Kiều hơn hẳn Thúy Vân nhưng nàng đâu có được hưởng hạnh phúc.
Trong xã hội ngày nay, kiến thức là một kho tàng vô cùng rộng lớn của loài người, có thể cho là không có biên giới xác định. Với sự đổi mới từng ngày của thế giới, lượng kiến thức dần được mở rộng không ngừng. Trong cái kho tàng vô hạn ấy, ta có thể tìm kiếm, ứng dụng để xây dựng nên một tri thức mới đem lại niềm tự hào, niềm tin cho cả một dân tộc. Chính nhờ những yếu tố đó, một triết gia người Anh – Francis Bacon đã đưa ra một nhận định : “Tri thức là sức mạnh” để bộc lộ suy nghĩ của bản thân ông, và cũng để chứng minh cho nhân loại thấy được, điều ông đang thấy !
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu được nội dung vấn đề ở đây là điều gì. Chúng ta đang tìm hiểu về “Tri thức”. Vậy “Tri thức” có nghĩa là gì? Thật đơn giản khi ta chỉ hiểu tri thức là những thông tin được biểu đạt trong sách vở, trong những văn bản thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu như chỉ có hai điều ngắn gọn như vậy, vì sao ta lại không dùng từ “kiến thức” thay cho “Tri thức”? Thưa là vì “Tri thức” còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là tập hợp nhiều quá trình phức tạp khác nhau, thông qua việc nhận thức, giao tiếp, lý luận,… trong nhiều vấn đề của xã hội. “Tri thức” được xây dựng bằng cả một quá trình rất rất dài mới có thể được biểu đạt dưới dạng văn bản. Ngoài ra đó còn là một quá trình sáng tạo dựa trên những gì đã có một cách hoàn chỉnh hơn. Như vậy, có thể coi Tri thức bao hàm tất cả những gì thuộc về ý thức của xã hội loài người.
Có một vấn đề được đặt ra khi ta định nghĩa “Tri thức” như trên. Vì sao ngài Francis Bacon lại nhắc đến Sức mạnh đối với Tri thức? Liệu rằng hai khái niệm đó có mối quan hệ với nhau? Sức mạnh được hiểu là một dạng năng lực của con người, một dân tộc hay cả một quốc gia, một xã hội loài người. Ngoài ra Sức mạnh còn có thể là năng lượng phát sinh của những máy móc thuộc nhiều ngành khác nhau (còn được gọi là Công suất). Giữa “sức mạnh” và “tri thức” có mối liên hệ chặt chẽ là bởi có tri thức, ta mới có thể sáng tạo ra những vật dụng, máy móc và để chúng phục vụ ta trong đời sống hằng ngày. Đó cũng có thể là việc ứng dụng những chiến lược sách vở để chiến thắng trong một cuộc chơi thực tế… Vì vậy, quả thật không sai khi nhận định “Tri thức là sức mạnh”
Trong chúng ta, không ai mà không biết đến tên những nhà bác học như Pythagore, Thales, Newton, Einstein, Edison,… Những nhà bác học ấy đều sử dụng vốn kiến thức hiện tại mà sáng tạo ra những điều mới mẻ hơn, phục vụ cho đời sống vật chất lẩn tinh thần cho toàn xã hội. Chẳng hạn như là nhà khoa học Edison với bóng đèn điện hay xe lửa,… hay những công thức Toán của Thales và Pythagore, tất cả đều được sử dụng rộng rãi cả ngàn năm nay,… Chúng ta còn được tìm hiểu về quá trình lai của các loại cây từ những nghiên cứu của Mendel,… Như vậy, thật đúng đắn khi tìm hiểu sau vào nguồn tri thức vô hạn này.
Thế nhưng, không phải sức mạnh nào cũng được tạo ra bởi tri thức cũng đem lại hạnh phúc cho con người. Nếu sử dụng vốn tri thức uyên bác của mình theo lợi ích, tham vọng riêng của các nhân thì e rằng sản phẩm của tri thức sẽ đem lại tang thương cho cả xã hội loài người. Chúng ta từng biết tới Nobel như một ông vua thuốc nổ. Ông đã tìm ra công thức kết hợp Nitroglycerin với những vật chất khác để hoàn thiện sản phẩm nổ của mình. Thuốc nổ của ông được sử dụng trong việc phá đá, phá núi,… thế nhưng khi công thức đó rơi vào tay của những kẻ độc ác, cũng như những người thiếu hiểu biết và người không biết cách sử dụng an toàn thì Thuốc nổ của Nobel trở thành một vũ khí huỷ diệt con người. Một minh chứng cho chúng ta thấy rõ được vấn đề chính là nỗi đau tang thương của người dân Nhật Bản khi hứng chịu hai trái bom nguyên tử Fat Man và Little Boy (Dự án Manhattan) – là sản phẩm trên lý thuyết của Albert Einstein (Người sáng tạo ra Thuyết tương đối), Bohr (Người sáng tạo chính ra thuyết Lượng tử), John von Neumann (Nhân vật sáng tạo Lý thuyết trò chơi) và cùng nhiều nhà khoa học kiệt xuất khác khi rơi vào tay những nhà quân sự của Hoa Kỳ (Những người có tâm niệm “Không thể không cho toàn thế giới biết sức mạnh của Mỹ”) trong WW2. Qua những bằng chứng khủng khiếp đó, ta thấy được tầm quan trọng của việc tỉnh táo khi sử dụng nguồn tri thức vô hạn này. Nếu ứng dụng nó cho quyền lợi cá nhân thì cả xã hội sẽ đi đến điểm KẾT THÚC.
Việt Nam ta là quốc gia có tinh thần học tập rất đáng ngợi khen. Từ thới nhà Lý đã tổ chức được khoa thi tuyển chọn nhân tài. Tất cả các bậc danh hiền đó đã cùng nhau gom góp tri thức để xây dựng quốc gia Đại Việt xưa ngày một tốt đẹp và phát triển. Là một người con nước Việt, chúng ta không còn xa lạ khi nhắc đến cụ Phan Bội Châu với Phong trào Đông Du, hay cụ Chu Văn An đã đào tạo ra những nhân tài cho đất nước. Ngoài ra chúng ta còn có cụ Nguyễn Đình chiều với những bài thơ cổ động chống Pháp, cụ Nguyễn Du với những bài thơ mang đậm triết lý nhân sinh,…
Tiếp theo những thế hệ cha ông đi trước, hàng loạt những phong trào học tập diễn ra để phát triển nhân tài. Tiêu biểu cho giai đoạn phát triển phong trào đấu tranh – học tập này là Bác Hồ. Bác đã bôn ba khắp chốn để tìm kiếm, gom góp kiến thức, chiến lược để đem về quê nhà với khát khao giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Và trên con đường gian khổ đó, Bác đã gặp được học thuyết Marx-Lenin, một con đường để đưa nước ta đến cao trào cách mạng. Đó có thể được xem là sức mạnh vô hạn mà Bác đã ứng dụng, đem lại tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Thật đáng tự hào cho một con người với một nguồn tri thức dồi dào, là niềm vinh hạnh cho đất nước.
Đó là những thành tựu, là sức mạnh mà những con người ở thế kỷ trước đem lại cho dân tộc. Thế trong những thời gian gần đây, những con người nào đã làm sáng danh dân tộc? Vâng, đó là GS Ngô Bảo Châu – người chứng minh thành công bổ đề Langlands trong 16 năm kiên trì nhẫn nại. Ông đã được tôn vinh trước toàn thế giới với giải thưởng Toán học danh giá Fields. Họ là những người đã trưởng thành và có những cống hiến to lớn, vậy ở lứa tuổi THPT, nước Việt ta đã có những thành tựu nào được quốc tế ghi nhận. Qua các kỳ thi Olympic quốc tế, những cái tên như Lê Bá Khánh Trình (HCV Đặc biệt Olympic Toán 1979), Đậu Hải Đăng (HCV Olympic Toán 2012) hay Trần Hoàng Bảo Linh (HCĐ Olympic Toán 2012 – Học sinh lớp 11 trường PTNK),… Quả thật không còn ngôn từ nào để diễn tả được sức mạnh mà tri thức đem lại cho loài người chúng ta.
Qua những lời phân tích trên, chúng ta có thể thấy được sức mạnh mà tri thức đem lại. Nó không chỉ là sức mạnh về quân sự, hay khả năng huỷ diệt hàng loạt,… mà còn là niềm tự hào, sự cứu rỗi cho toàn dân tộc. Hiện nay, một vấn đề Toán học đang được rất nhiều nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và phát triển, đem lại biết bao ứng dụng cho các ngành khoa học khác như Y học, Công Nghệ, Kinh tế học,… Đó là LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI (John von Neumann). Nhiều nhà kinh tế học đã được giải Nobel Kinh tế cho những thành tựu quan trọng được xây dựng từ lý thuyết này. Hi vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ có thêm những con người ứng dụng Lý thuyết này trong một ngành khoa học, để đem lại lợi ích và niềm tự hào cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nói tóm lại, chuyện gì cũng luôn có hai mặt đối lập song hành. Vì vậy, chúng ta phải thật sự tỉnh táo để có thể hiểu được sức mạnh mà tri thức đem lại. Hãy sử dụng vốn tri thức của mình để đem lại hạnh phúc cho người khác. Chứ đừng dùng nó để khiến cho cả thế giới này khóc nhiều hơn. Nhân loại đã khóc quá nhiều trong các cuộc chiến tranh. Và nhiệm vụ của chúng ta là xây dụng Hoà bình. Là một công dân sống trên Trái Đất này, hơn nữa lại là người con nước Việt, chúng ta còn chần chờ gì mà không ra sức học tập, rèn luyện, sáng tạo để tiếp thu và phát huy nguồn tri thức, tích góp kinh nghiệm cho bản thân để đem đi giúp đời, giúp người. Hãy phát triển nguồn tri thức ngày một rộng lớn hơn, và để nó mạnh mẽ hơn, bạn nhé !!!
tick cho mình đúng nhe mình mất nhiều thời gian để làm bài này lắm đó
Tham Khảo
Trong cuộc sống ai ai cũng mong muốn mình được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn từ cuộc sống, hạnh phúc đơn giản chỉ là những rung động hay sự thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cuộc sống. Hạnh phúc là một khía cạnh không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người trong xã hội ngày nay.
Hạnh phúc đó là cảm giác nâng nâng, thỏa mãn từ bên trong xúc cảm con người, hạnh phúc không phải là cái gì đó lớn lao mà đó là những tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim của mỗi con người. Hạnh phúc từ xưa đến nay luôn luôn được con người theo đuổi và coi đó là cơ sở sống, cũng như mục đích sống của họ trong cuộc đời này. Hạnh phúc không nhất thiết là phải xuất phát từ cái to lớn, mà nó có thể là những cái đơn giản và lớn lao nhất mà cuộc sống này đang để lại, cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, nhưng con người sẽ luôn sống và đi tìm lấy niềm vui, sự hạnh phúc cho chính bản thân mình.
Hạnh phúc còn luôn là động lực để cho con người có thể làm được mọi điều tốt nhất trong cuộc sống. Như chúng ta đều thấy hạnh phúc có thể là niềm vui khi chúng ta gặp một người bạn lâu ngày không gặp, hạnh phúc khi hôm nay chúng ta được thưởng thức một món ăn ngon do mẹ nấu, hay hạnh phúc là khi chúng ta đạt được điểm số cao trong kì thi. Có lẽ mọi điều trong cuộc sống có thể tạo nên sự hạnh phúc cho mỗi chúng ta.
Hạnh phúc là do chúng ta tự lựa chọn, chính vì thế hạnh phúc là thứ chúng ta cần phải học hỏi, giữ gìn và phát huy nó mỗi ngày. Mỗi ngày thức dậy phải cám ơn cuộc đời vì chúng ta còn được sống, được yêu thương, được học tập. Hạnh phúc là cung bậc cảm xúc cao nhất của con người, chính vì vậy, mỗi chúng ta đều không ngừng cố gắng để có được nó, và phát triển nó nhiều hơn nữa trong cuộc sống của mình.
Mỗi chúng ta đều phải luôn luôn cố gắng để rèn luyện bản thân mình mỗi ngày bởi điều đó cũng đem lại cho chúng ta niềm vui, sự hạnh phúc và tư tưởng sống mỗi ngày. Hạnh phúc giúp chúng ta rất nhiều điều trong cuộc sống, giúp chúng ta vững bước hơn trong cuộc đời, cũng như nâng cao được tình cảm tinh thần trong bản thân của mình.
Như người xưa đã có câu: Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, bởi vậy, mỗi ngày chúng ta đều sống và làm việc có ích thì cuộc sống sẽ căng tràn nhựa sống, cũng như những điều tốt nhất cho chính cuộc sống này. Luôn phải tự phê, và rèn luyện bản thân mình mỗi ngày, có như vậy, chúng ta mới thấy cuộc đời này ngập tràn niềm vui và hạnh phúc hơn.
Trong cuộc sống mỗi chúng ta cần phải cố gắng để rèn luyện bản thân mình mỗi ngày, luôn yêu thương và trân trọng của cuộc sống của chính mình, yêu thương và chăm sóc bản thân mình nhiều hơn nữa, rèn luyện bản thân mỗi ngày để chúng ta thấy cuộc sống của mình có nhiều ý nghĩa và hạnh phúc hơn.
Hạnh phúc của mỗi chúng ta là được sống yêu thương và tận hưởng mọi điều của cuộc sống, chính vì vậy, để hưởng những niềm vui trọn vẹn, chúng ta nên sống và rèn luyện bản thân mình nhiều hơn nữa, luôn yêu thương và rèn luyện bản thân để làm được những điều có ích nhất cho chính cuộc sống của mình.
Mỗi người chúng ta luôn sống và theo đuổi cái ước mơ, cũng như hoài bão của chính bản thân mình, học tập và rèn luyện bản thân mỗi ngày, là điều thiết yếu để tạo nên niềm vui cho cuộc sống. Trong xã hội chúng ta đều thấy có rất nhiều người rất hạnh phúc vì cuộc sống đủ đầy cả về vật chất và tinh thần, họ nhận được nhiều điều từ cuộc sống. Nhận được sự yêu thương của mọi người xung quanh, nhận được nhiều sự quan tâm của tất cả mọi người.
Mỗi chúng ta cần phải sống thật hạnh phúc để tận hưởng những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống này, luôn yêu thương và biết sống đúng đắn để cảm nhận những hương vị ngọt ngào mà cuộc sống này đem lại.
Hạnh phúc là cung bậc tình cảm cao quý của con người, mỗi chúng ta đều cố gắng để đạt được nó, vì hạnh phúc đem lại cho con người cảm giác sung sướng và thỏa mãn trong cuộc sống.