Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
2 . Tìm hiểu văn bản
a, Nhận dạng thể thơ của bài Nam quốc sơ hà bằng cách hoàn thành các cậu sau :
Số câu trong bài :......4....câu..................................................
Số chữ trong câu:...........7 chữ..............................................
Cách hiệp vần của bài thơ :.....các câu văn đều có vần "ư"......................................
Nam quốc sơn hà được viết bằng thể thơ :.........................Thất ngôn tứ tuyệt.
b, Dựa và chú thích , giải thích vì sao bài thơ Nam quốc sơn hà từng được gọi là " bài thơ thần ".
Vì nhờ bài thơ mà tinh thần binh sĩ lên cao , khiên quân giặc nhụt chí.
c,Trình bày các ý cơ bản của bài thơ theo sơ đồ sau :
Ý 1 :..khẳng định một cách tuyệt đối chủ quyền lãnh thổ của đất nước........................................
Ý 2 :.Nêu lên ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền trước mọi kẻ thù xâm lược..........................................
a) Số câu trong bài: 4 câu
Số chữ trong câu: 7 chữ
Cách hiệp vần: Tiếng cuối các câu 1,2,4
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt
b) Bài thơ này được gọi là bài thơ "Thần":
Vì bài thơ này được phát ra từ đền thờ thân Trương Hống và Trương Hát và làm cho quân giặc khiếp sợ. Nêu cao tinh thần đấu tranh dành quyền độc lập.
c) Ý 1: Nước Nam là của người Nam, sách trời đã định rõ. Từ đó khẳng định về chủ quyền lãnh thổ của đất nước.
Ý 2:Là ý trí kiên quyết bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc. Nếu giặc xâm phạm thì phải chuốt lấy bại vong.
Từ đó suy ra hai ý trên là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam
nghe nói nhà em xa lắm
ở cuối đường quốc lộ 1A
nhà em ở xa lắm đó
về tới nơi là thấy hết xăng rồi
a)
b)
"Bánh trôi nước" cũng vậy: "Thân em vừa trắng lại vừa tròn". Sử dụng từ "Thân em..." để mượn lời người phụ nữ tự nói về thân phận mình, tác giả dân gian và nữ sĩ Xuân Hương đều muốn nói lên cái bé nhỏ, bẽ bàng, cô độc của người phụ nữ trong xã hội xưa. Hai từ "Thân em..." mang ý nghĩa "thân phận của em" và cũng có thể "tấm thân của em", hai từ ấy vang lên đầy hờn tủi, đầy xót xa.
Không chỉ vậy, cùng hướng ngòi bút về người phụ nữ, dân gian và Hồ Xuân Hương đều thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong dáng dấp bên ngoài và những đức tính tốt đẹp bên trong của người phụ nữ. Ca dao ngợi ca họ là những "dải lụa đào" mềm mại, thanh nhã; là giếng khơi mát lành, trong trẻo; là "hạt mưa" rào giữa cơn khát của nhân gian... Hình ảnh người phụ nữ hiện lên qua chùm ca dao "Thân em..." và bài thơ "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương là một biểu hiện quan trọng của tinh thần nhân đạo trong văn học Việt Nam
c) "Bánh trôi nước" thì vô cùng trân trọng cái đẹp "vừa trắng lại vừa tròn" rất mực xinh xắn, đáng yêu của họ. Không chỉ vậy, họ còn là người có công lao sánh ngang tầm non nước "Bảy nổi ba chìm với nước non". Đặc biệt, dầu cuộc đời khó khăn, nhọc nhằn họ vẫn mang "tấm lòng son" chung thủy. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến quả thực vẹn toàn về dung nhan và phẩm hạnh.
d)
"Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn".
Đời người phụ nữ đã vốn nhọc nhằn với bao việc bếp núc, chợ búa, con cái... để mưu sinh, để tồn tại. Thành ngữ "bảy nổi ba chìm" dùng để diễn tả sự long đong, lận đận ấy. Nhưng xót thương nhất là họ không có quyền quyết định số phận mình. May hay rủi, hạnh phúc hay bất hạnh đều là do người khác: "Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn".
e)
Câu thơ cuối
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Dù phải chịu bao bất công nhưng ở câu thơ vẫn ngời sáng lên nét đẹp của người phụ nữ, một nét đẹp tươi sáng thuần hậu của phụ nữ Việt Nam. Giọng thơ đầy quả quyết mang nét tự hào nói lên tấm lòng son sắt của bao thế hệ phụ nữ Việt, là tiếng chuông cảnh tỉnh những người đàn ông để họ đừng đánh mất đi những giá trị quý báu này.
Bài thơ “Bánh trôi nước” là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bài thơ biểu hiện lòng thương cảm và niềm tự hào với số phận người phụ nữ đồng thời lên án xã hội cũ đầy bất công.
Gợi ý:
- Để tránh xảy ra các vấn đề về tai nạn giao thông. Học sinh cần có ý thức hơn về việc chấp hành nội quy cyar nhà nước và nhà trường đề ra...
- Học sinh cần đội mũ khi đi xe máy, xe đạp điện. Không đánh võng hay lấn chiếm đường đi...
- Khi đi xe cần giảm tốc độ, không được vượt quá tốc độ cho phép....
Đề văn hơi vô lý, không biết ai ra đề vậy:
+ Có ai đi tắm biển ở nơi toàn cá mập không, nếu có thì cũng không phải đi tắm biển mà là đi điều tra về giới thuỷ sinh ở khu vực biển đấy thôi.
+ Chỉ cần ở đó có cá mập thì địa phương đó chắc chắn để biển cảnh báo và hạn chế người tới đây để giảm thiệt hại
+ Bạn ở trên bờ, cá mập ở dưới nước thì súng sao có tác dụng, cho dù bạn xuống nước được đi chăng nữa thì súng không còn hoạt động đâu
+ Cá mập tuy nguy hiểm nhưng nếu không có sự chỉ định hoặc lệnh từ các cơ quan cấp trên mà bạn tự ý mang súng săn cá mập thì chuẩn bị tiền nộp phạt hoặc tù nhẹ nhé
=> Thuyết minh về cá mập thì được chứ thuyết minh như câu hỏi của bạn thì mình không biết
1.
Hoàn cảnh : Bài Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch được sáng tác khi nhà thơ xa quê, một đêm chợt nhìn ánh trăng và khắc khoải nhớ về quê nhà.
Bài Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương được viết khi nhà thơ vừa trở về quê cũ, đứng ngay trên mảnh đất quê mình mà như người xa lạ.
Cách thể hiện tình cảm : Bài Tĩnh dạ tứ sử dụng từ ngữ đơn giản mà chắt lọc thể hiện tình cảm một cách trực tiếp nhẹ nhàng thấm thía nỗi nhớ quê của một người đang phải sống xa quê.
Bài Hồi hương ngẫu thư thể hiện một cách gián tiếp thông qua tả và kể.
Bài thơ biểu hiện vừa chân thực , sâu sắc vừa hóm hỉnh tình yêu quê hương thắm thiết đáng trân trọng của một viên quan lớn đời Đường trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ.
Chúc bạn học tốt!
công cha như núi ngất trời
nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
núi cao biển rộng mênh mông
cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
bài ca dao trên là lời ru của mẹ nhắn nhủ với con cai.hai câu thơ đầu,tác giả đã sử dụng thành công 2 phép tu từ so sánh:công cha với núi ngất trời,nghĩa mẹ với nước ở ngoài biển Đông.tác giả so sánh công cha,nghĩa mẹ với những hình ảnh thiên nhiên cao cả,hùng vĩ,vĩnh hằng,trường tồn ko j có thể đo đếm dc.qua đó,bài ca dao muốn nhấn mạnh,khẳng đinhj công cha,nghĩa mẹ vô cùng lớn lao,cao cả,vĩ đại ko j có thể sánh bằng.câu 3 sử dụng phép ẩn dụ "núi cao biển rộng mênh mông" để khẳng định 1 lần nữa công cha,nghĩa mẹ vô cùng to lớn.câu cuối từ"con ơi"là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng,tha thiết,nhắc nhở đạo làm con cần ghi nhớ cù lao chín chữ.vì vậy,mỗi chúng ta cần ghi lòng tạc dạ công ơn của cha mẹ và có những hành động sao cho xứng đáng với công lao to lớn ấy
bài này mk đã kiểm tra và mk tự làm,ko hề có trên mạng và ko dài cx ko quá ngắn
thế nên chúc bạn hok tốt nha
Ca dao,dân ca là một cây đàn muôn điệu của người dân Việt Nam.Những khúc hát tâm tình của quê hương đất nước,của tình cảm gia đình đã thấm sâu vào tâm hồn em qua lời ru ngọt ngào,êm ái của mẹ.một trong những bài ca dao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong long em là bài:
(trích thơ ra nha)
Bài ca dao đã ca ngợi công cha nghĩa mẹ là vô cùng to lớn,không gì đo đếm được,đồng thời nhắc nhở đạo làm con phải làm tròn chữ hiếu.
Hai câu thơ đầu là lời ru êm ái của mẹ ru con đc nhân dân viết bằng hai câu ca dao theo cấu trúc song hành nói về công cha nghĩa mẹ.đây là một cách nói vừa cụ thể,vừa biểu cảm:công cha đc so sánh với núi ngất trời,ngọn núi cao đến tận tầng mây xanh không thước gì đo đếm được. nghĩa mẹ đc so sanh với nước ở ngoài biển đông.đó là một nguồn nước bao la vô tận,không bao giờ cạn.núi,biển,trời,nước là hình ảnh vĩ đại,vĩnh hằng đc so sánh với công cha nghĩa mẹ nhằm khẳng định và ca ngợi công cha,nghĩa mẹ la vô cùng to lớn không thể nao kể xiết.
hai câu cuối là lời nhắn nhủ ân tình,thiết tha.hai tiếng "con ơi"làm cho lời ru trở nên ngọt ngào,thấm thía.câu ca dao thứ 3 là một hình ảnh ẩn dụ nhắc lại công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn,bao la như núi cao,như biển rộng. câu ca dao thứ 4 tác giả dân gian đã sử dụng bốn chữ hán "cù lao chín chữ"để nói lên công lao sinh thành,nuôi dưỡng,dạy bảo con cái khó khăn,vất vả,nhiều bề của cha mẹ.nó như muốn nhắc nhở chúng ta phận làm con phải ghi lòng tạc dạ công lao của cha mẹ và đó cũng chính là thực hiện đạo lí : có hiếu
bằng những hình ảnh ẩn dụ,so sánh,cách dùng từ hán việt độc đáo,tác giả dân gian đã thể hiện thành công và xúc động công lao trời biển của cha mẹ ,đồng thời giáo dục chúng ta một bài học về đạo lí làm con vô cung thấm thía và có ý nghĩa
Từ xưa đến nay, những câu hát ru ngọt ngào mang tên ca dao theo năm tháng cứ đọng lại cứ đọng lại mãi, nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Trong đó, chùm ca dao “Những câu hát về tình cảm gia đình” luôn giữ một vị trí quan trọng. Tình cảm giữa cha mẹ và con cái là thứ tình cảm huyết thống thiêng liêng nhất, nâng đỡ tâm hồn con người, để mỗi chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn được thể hiện rõ trong bài ca dao:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Bài ca dao là một thông điệp mà những người mẹ muốn nhắn nhủ với đứa con thân yêu qua lời ru, tiếng hát ngọt ngào, sâu lắng. Trong hai cầu đầu của bài ca daobr /> “Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.”
Bài ca dao đã cụ thể hoá công lao của cha mẹ bằng việc so sánh với núi, với biển. Đó là những hình ảnh to lớn, mênh mông tượng trưng cho sự vĩnh hằng: “Công cha” được ví với chiều cao không cùng của "núi ngất trời", “nghĩa mẹ” được tả với chiều rộng vô bờ bến của "nước ngoài biển Đông", chiều nào cũng tận, như công lao của cha mẹ không gì đo đếm được. Hai câu thơ trên ngụ ý nhắc nhở công lao trời biển của mẹ cha đối với con cái.
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Hai câu trên là lời khuyên cho những người con phải ý thức đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ. Phận làm con phải đặt chữ hiếu làm đầu, nghĩa là phải kính cha yêu mẹ và sống sao cho xứng đáng với công ơn trời bể của cha mẹ, của chín chữ cù lao. Hình ảnh “núi”, “biển” được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ: núi - ngất trời, cao; biển - rộng mênh mông, khiến ta cảm nhận thấy công lao cha mẹ to lớn dường nào. Hơn nữa lời nhắc nhở răn dạy được thể hiện qua hình thức bài hát dân gian. Với âm điệu tâm tình, thành kính, sâu lắng, lời răn dạy đó dễ đi vào tâm hồn của người đọc. Đối với tuổi thơ mỗi người Việt Nam, ca dao về tình cảm gia đình là dòng sữa ngọt ngào, vỗ về, an ủi tâm hồn ta. Nhờ lời ru của mẹ trong bài ca dao trên, chúng ta đã lớn dần và trưởng thành, đã hiểu về công lao dưỡng dục to lớn của cha mẹ và bổn phận, trách nhiệm của người làm con. . .
Chữ ''Hiếu'' là một trong những nét đạo đức của nền phong hóa Việt, Hiếu có nghĩa là đức hạnh của một người biết thờ kính, chăm sóc mẹ cha. Khi còn bé thì phải biết tuân theo lời dạy bảo của cha mẹ, khi cha mẹ còn sinh tiền thì phải biết chăm sóc, hầu hạ, phụng dưỡng cho trọn đạo làm con; đến khi cha mẹ mãn phần thì phải để tang, thờ cúng và nguyện cầu cho cha mẹ được vãng sanh; siêu thoát.
Trong đạo Phật, đạo Hiếu đã được đức Phật dạy cho hàng đệ tử phải lấy chữ hiếu làm trọng. Ân cha mẹ là một trong tứ ân cần phải luôn luôn giữ gìn và tu tập. Trong kinh Vu Lan, Đức Phật đã dạy cho chúng ta gương hiếu hạnh của Đức Mục Kiền Liên và từ đó đã khai nguồn cho mùa Vu Lan thắng hội vào dịp rằm tháng bảy âm lịch. Mùa Vu Lan còn được gọi là mùa báo hiếu, lễ tiết Vu Lan rằm tháng bảy là một trong những ngày lễ vía quan trọng của sinh hoạt Phật giáo. Nương theo tinh thần báo hiếu của ngày lễ Vu Lan, căn cứ theo sự tích Đức Mục Kiền Liên cầu xin Đức Phật dạy cho phương cách cúng dường trai tăng và nhờ vào nguyện lực của chư tăng mà đã cứu được mẹ thoát khỏi ngục hình. Do đó ngày Vu Lan còn được xem như là "Ngày của Mẹ". Vì thế trong lãnh vực Đạo Hiếu đã có sự gần gũi, gắn bó giữa sinh hoạt của đạo Phật và nền văn hóa Việt tộc.
Một trong những nét thể hiện cho nền văn hóa phong phú của dân tộc Việt, đó là những nét giáo huấn thuần túy trong dân gian được chất chứa trong những vần điệu ca dao. Trong bài này, chúng tôi xin được đề cập và trích dẫn một số câu ca dao Việt Nam đã được truyền tụng nói về lòng hiếu thảo của con cái đối với mẹ cha, cũng như đề cao đến công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ đã hiếu trọn đời mình cho cuộc sống và hạnh phúc của đàn con.
Nói đến ca dao trong đạo hiếu của dân tộc Việt, hầu hết người Việt chúng ta đều thuộc và thường dạy con cái những câu ca dao sau đây để khuyên dạy chúng ta làm người phải biết nghĩ đến công ơn cao dày của cha mẹ. Hình ảnh để sánh ví với công cha nghĩa mẹ thường được nêu ra như : "Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"
Chuyện cô Cúc ( Toàn chữ C ) :
Cô Cúc con cụ Cả Cần. Cô cao cao , chân cong cong. Của cải cô chẳng có chi, chừng chục cái chén cổ, cái chày, cái cối, con chó Cún cùng con cu cườm. Cạnh chỗ cha con cô còn có chú Chệt Cụt chân cùng cha con cậu Cường. Chú Chệt cụt chân chắp cái chân cây chạy cồm cộp. Còn cậu Cường coi cũng chì chì. Cậu có cả chục cái chứng chỉ. Cha cậu cố chạy chọt cho cậu chức chủ Chành chi cuộc chợ Cầu Công, cuộc chạy chưa có chi chắc chắn. Cậu cứ chê cha chẳng chửng chạc chi cả, coi chán chết.
Chưa chẳn chín chục cụ Cả Cần cảm cúm chết. Cảnh cô Cúc cơ cực chẳng có chi chôn cất cho cha, Cô Cúc cầm con chó cún cùng con cu cườm cho chú chệt cụt chân. Cảm cảnh cô, chú Chệt cấp cho cô chiếc chiếu, chục cam, cùng con cá chép cho cô cúng cha. Cô Cúc chỏng chảnh chê cam chua , cá chết, chiếu chật chẳng chịu cầm. Chú Chệt cáu, chụp con cu cườm chặt cái cẳng, chụp con chó cún chẹt cái cổ . Chim cùng chó chỉ Còn cục cựa chút chút, cuối cùng chết cả cặp. Có các cụ can, cuối cùng chú Chệt cũng chôn cất cụ Cả cho cô Cúc.
Cậu Cường cảm cô Cúc. Cậu cà chớn chẳng chịu cưới Cô Cúc chán chường chuyện cũ. Cô cần có chồng. Cô chịu cho chú Chệt cụt chân cưới cô. Chưa có con cái chi, chó chị Chín cắn chú Chệt. Cô Cúc cố cấp cứu cho chồng chú Chệt cứ chết. Cô Cúc côi cút cứ chảnh. Cậu Cường chì chiết " chẳng chịu Cường chừ cơ cực cho chừa"
Chuyện Cô Cúc chẳng có chi , các cậu chớ có cười!
------------------------------------------------------------
Chuyện cô Châu ( Chữ C nốt ) :
Cô Châu, con cưng của cụ Cả Cầu. Cụ Cả có cất cái chòi cạnh cửa Cổ-Chiên. Cứ chiều chiều, cô Châu chạy chơi cùng con chó cò của chị Chín, con của cụ Chúc, cậu của cô Châu.
Cô Châu cỡ chẵn chín, cũng có chút cà-chớn, cô chuyên chơi chuyện cắc-cớ. Cô chọc con chó, cô cầm cái củ cải, cô chìa cho con chó, con chó chồm chồm chực cắn cái củ
cải.
Cô Châu chỉ cù-cưa cú-cứa chơi chứ chẳng chịu cho con chó cắn cái củ cải. Cô Châu cất cao cái củ cải. Cô Châu cất củ cải, con chó cáu, con chó chồm chực cùng cô Châu. Cẩu cùng cực, cuối cùng, con chó cắn cô Châu. Con chó cắn cái cần cổ, cắn cái cùi chỏ cô Châu. Cô Châu chạy, cô cầu cứu: ”cấp cứu, cấp cứu!! chó cắn, chó cắn!!”
Chợt có Cậu Chương câu cá cạnh cái chòi của cô Châu, cậu Chương cấp-cứu; cậu chở cô Châu chạy chữa. Chẳng có cậu Chương cứu, chém chết cô Châu chẳng cùi cái chân chắc cũng cụt cái cùi chỏ.
Cậu Chương, con cuối của Cụ chín Cúc. Cậu Chương chịu chải-chuốt, có chút của cải. Cậu Chương cũng cắc-cớ, cũng có chút cà-chớn, “chịu chơi chứ chẳng chịu chi”. Cậu Chương keo kiết kẹo kéo có chứng chỉ, cậu Chương có cốt cách của các công-chức cao-cấp. Cậu Chương cố chấp, cau-có, chẳng chửng-chạc. Cậu Chương câu cá, cá cắn câu, cậu cười cười, cợt cợt, chừng cá chẳng chịu cắn câu, cậu cáu, cậu chưởi: “cha con cá, cá cà-chớn!”.
Còn cô Châu, cô chưa chồng cũng chẳng có con cái chi. Cô cũng chịu chơi chút chút. Cô cần-cù, chịu cực, cũng chịu chải chuốt. Chính cái cung cách chịu chơi cùng chịu
chải chuốt của cô Châu cảm kích cậu Chương. Cậu Chương cực-kỳ kết cô Châu.
Cứ chiều chiều, cậu Chương kiếm chuyện câu cá chứ cậu chẳng cần cá, cậu cốt cạnh cô Châu, chỉ cần có cô. Cậu cố kiếm cách chài cô Châu. Có cô Châu, cậu Chương cười chúm-chiếm. Cậu Chương cười cùng cô Châu, cô Châu cũng cười cong-cớn cùng cậu Chương, cái
kiểu cười của các cô chịu chơi. Cậu Chương cứ kiếm chuyện con cà con kê cùng cô Châu chứ chẳng chịu chăm chú câu cá. Cô Châu cũng có cảnh cáo cậu Chương. Cậu Chương chỉ cười chứ cậu chẳng care.
Cậu còn chê, cậu cau-có cùng cô Châu: “Chuyện của Chương, Châu chớ có chen, chớ cà chớn, cà cháo, coi chừng Chương chém!”. Chừng cơn cáu cao, cậu còn kêu cô Châu: “cái con... chồn cái!”. Cô Châu cự cậu Chương, cậu Chương càng cau-có cùng cô Châu, cậu Chương chọc cô Châu. Cậu cố kiếm chuyện chim chuột, kiếm cớ chung chạ cùng cô Châu.
Có chiều, chờ cho cô Châu kẹt công chuyện, cậu Chương cầm cái cưa, cưa cái chốt cửa của cái chòi của cô Châu kêu “cà-cót, cà-két”. Cậu Chương cố cạy cửa cái chòi cô Châu. Cậu chen cái chân, chống cái cùi chỏ, cậu Chương cố chui cái cổ cụt của cậu chêm cái cửa, chớ cho cô Châu chạy....
------------------------------------------------------------
Đinh Đại Đoàn ( Chữ Đ ) :
Đêm đó , Đinh Đại Đoàn đồ đạc đâu đó đầy đủ đi đến đầu đường để đón đào điệu đồ đầm đẹp đẽ , đeo đồ đầy đàng , đầy đống , đang đứng đợi Đoàn đằng đèn điện đầu đường . Đoàn đến địa đào điệu đắm đuối , đom đả ( để được điểm
- Điệp định đi đâu để Đoàn đưa đi
Đào điệu đỏng đảnh đáp :
- Điệp đâu định đi đâu đâu . Điệp đứng đợi Đoàn đến đỗi Điệp đói , Đoàn đưa đô đây để Điệp đi đớp đẹp .
- Được , được đến đây Đoàn đưa . Đoàn đáp đặng đắn đo . Đoàn đoán đào Điệp đang đía Đoàn để đi đàn đúm đâu đó . Đoàn đoán Đoàn đang đụng độ , đương đầu đứa điên điển , đua đòi đủ điễu , Đoàn định đi đường đường đấng đạo đức đứng đắn . Đoàn đâu đần độn đến đỗi đưa đô đại . Đào điệu đoán được điều Đoàn đắn đo , đã đứng đón Đoàn đanh đá :
- Đi đâu ? để đô đó , đi đâu đi ! Đoàn đánh được Điệp . Điệp để Đoàn đi ! Điệp đeo đai đen đấy !
- Đào điệu đứng đó đi đôi đường đẹp đáo để , đoạn đùng đùng đến đè đầu Đoàn , đâu để Đoàn động đậy , đánh Đoàn , đập Đoàn , đá Đoàn , đét đít Đoàn . Đoàn đỡ đòn , đau điếng đổ đom đóm , đành điều đình :
- Đừng , đừng đừng đánh để Đoàn đưa :
Đào điệu độc địa đòi :
- Đưa đây đi , đừng để Điếp đợi , để Điệp đợi Điệp đục đầu Đoàn đó ! Đoàn định đưa , định đừng , định đưa , định đừng . Đào điệu điên đầu , đục đầu Đoàn đồm độp đến đã đời . Đoàn đành đưa đô để đào điệu đừng đánh Đoàn . Được đô đào điệu đếm đếm đoạn đành đoạn đủng đỉnh đi . Đoàn đờ đẫn , đừ đừ đứng đó . Đầu đít đều đau đớn , đồ đạc đã đứt đoạn , đổ đầy đường Đoàn đập đùi đốp đốp , đạp đất đành đành :
- Đồ ******* đàng , đồ đạp đổ , Đoàn đôi đoạn . Đạo đức đi đâu để đời đầy đồ đểu !!
Đoàn đã đoán đời Đoàn đều đều đi đến đỉnh đài đỗ đạt ., đoạt được đủ điều đẹp đẽ , đâu định được đời đảo điên đượm đầy đớn đau đến độ đó !
Đêm đen đủi , để đào đá đít đó đã đày đọa đời Đoàn , đẩy đưa Đoàn đi đến đường đơn độc đời đời .
------------------------------------------------------------
Chuyện Cậu Cẩn ( C again ) :
Cậu Cẩn con của cụ Chánh, cháu của cô Cư, cháu của chú Chiến. Cậu Cẩn có con chó cỡ con chồn, cẳng con chó cao cở cẳng con cò, cổ cũn cởn cở cổ con cóc. Cổ con chó cậu cột cái chuông. Cậu cưng con chó cùng cực, con chó cũng cưng cậu. Cứ chiều chiều cậu cõng con chó, cầm chiếc cần câu chăm chỉ câu cá chép cạnh chân cầu cuối cồn cát. Cậu chăm chú canh chừng cước cần câu, chốc chốc cậu cất cao cần câu coi. Con cá chép cắc cớ cắn câu, cậu Cẩn cất cao cần câu, cậu cười. Chốc chốc cả con cá chuối cũng cắn câu. Cậu Cẩn cầm con cá chuối chặt cổ, chìa cho con chó cưng của cậu. Con chó của cậu cắn cổ con cá chuối co cẳng chạy. Cậu Cẩn cất cần câu, cùng các cậu choai choai chơi cờ cạnh cổng chợ.
Chơi cờ chán chê, cậu cõng con chó. cầm con cá chép cậu chuồn. Cậu Cẩn cho con chó của cậu chui chuồng, cậu cầm con cá chép cậu cạo, cậu chặt, cậu cho chảo cậu chiên. Cá chín, cậu Cẩn cùng cụ Chánh chén cá chép chiên chấm cà cuống cùng chuối chát. Con chó cưng của cậu Cẩn cứ chập chờn cửa chuồng chở chực. Cuối cùng cậu Cẩn cho con chó chén cơm chiên cùng chút cá chép. Con chó cạp chén cơm chui chuồng.
Cụ Chánh côi cút, cụ cũng có con chim chích choè cùng cái chuồng chim cáo cạnh, cụ cưng con chim của cụ. Cứ chốc chốc cụ cầm cái chổi chà chống chân, cụ chầm chậm chộp các chú chuồn chuồn chập chờn cạnh cây cam cho con chim của cụ chén. Có chiều, cậu Cẩn cùng các chú choai choai câu cá, câu cua chỗ cống của cậu Cử. Cậu cột con chó cưng của cậu cạnh cửa. Con chó của cậu Cẩn cà chớn cứ chực cắn con chim của cụ Chánh. Cụ Chánh cầm cây chổi chọc con chó, con chó co cẳng chạy. Cụ Chánh cảnh cáo cậu Cẩn, cậu chỉ cười cậu còn cãi cối.
Cũng có chiều cậu Cẩn cần công cán chỗ công cộng. Cậu cũng cột con chó của cậu cạnh cửa chuồng. Cụ Chánh cùng cụ Chẩn chơi cờ. Cụ Chẩn cũng có con chó choai choai, cụ chẳng coi chừng, cụ cột con chó cạnh chỗ con chim của cụ Chánh. Con chó của cụ Chẩn cùng con chó của cậu Cẩn cắc cớ chỉ chờ chực cắn chim của cụ Chánh.
Cụ Chánh cầm cây cố cản, con chó cứ cào cấu, cứ cằn cằn. Chợt con chó của cậu Cẩn chồm cẳng cao cắn cái chuồng chim của cụ Chánh. Con chim chích choè chạy cuống cuồng cầu cứu cụ Chánh. Con chó của cụ Chẩn cắn cụt cánh, con chó của cậu Cẩn chặn cửa cắn chân, cắn cổ con chim. Chim của cụ Chánh cụt cẳng, cụt cánh, cuối cùng chết cứng, chỉ còn cái chân còn cục cựa.
Cụ Chánh cay cú cầm cây cối chục cân cất cao choảng con chó. Con chó của cụ Chẩn cà cuống co cẳng chạy. Cái cối cán cẳng con chó của cậu Cẩn cái “cộp“ chát chúa, con chó cố chạy - cụ Chánh cầm cây cuốc cuốc cổ con chó. Con chó của cậu Cẩn chùn chân. Cuối cùng cụ Chánh chém con chó chết cứng.
Cụ Chánh cùng cụ Chẩn cắt cổ con chó, các cụ cầm chép các cụ cạo, các cụ chất con chó cạo vào chỗ có củi cháy.
Cẳng con chó cong cong, các cụ chờ con chó chín các cụ chặt, các cụ cưa. Cụ Chánh cất cho cậu Cẩn cái cẳng, cái cổ. Còn cả con chó các cụ cho chảo các cụ chiên. Con chó chết các cụ có cớ chè chén. Chó chiên, chả chìa, củ chuối. Chốc chốc các cụ cùng chạm cốc, các cụ cười.
------------------------------------------------------------
Trần Thu Thủy ( Chữ T ):
Trần Thị Thu Thủy tên thật Trần Thị Thỏ, trú tại thôn Tám, Trảng Tranh, Tỉnh Thừa Thiên. Thuở thiếu thời, trí tuệ thì thường thôi, tuy thế, tính Thủy thật thà, thủ thỉ thù thì, thỏn thà thỏn thẻn, thật thương! Tới tuổi trăng tròn, Thủy tròn trặn, tươi tắn, trắng trẻo, tay tròn trĩnh, tóc thơm thơm, thật tuyệt!
Thủy tuyệt trần, tôi tả thì thô thiển. Thôi thì tàm tạm thế.
Trai tráng trong thôn Tám, từ trai tơ tới tuổi tứ tuần, từ tuổi tứ tuần tới tuổi thất thập, thoạt trông thấy Thủy, tất thảy tấm tắc trầm trồ:
“Trời! Trắng tựa tuyết!”
“Thon thả thế!”
“Tóc thật thướt tha!”
“Trác tuyệt! Trác tuyệt!”
Trai tơ thổn thức, tứ tuần tơ tưởng, thất thập thẫn thờ. Thấy Thủy thấp thoáng, tất thảy táo tác, thập thà thập thò, thật tội. Tứ tuần thách trai tơ: tán thắng Thủy thì thua tam trâu. Thất thập thách tứ tuần: tán thắng Thủy thì thua tám thúng tiền. Thách thì thách thế thôi, thua Thủy tất tần tật. Thủy tựa thần tiên, trai tráng trong thôn thì thô thiển, tiền tài trắng trơn, thân thế thấp tè, thế thì tán tới trăm tuổi!
Tiếng tăm Thủy truyền trong toàn tỉnh.Thư từ tới tấp tới tay Thủy. Thư thì thủ thỉ tâm tình. Thư thì tranh thủ trình thêm thân thế, tiền tài. Thư thì than thở tức tưởi. Thư thì thêm thơ, thêm tranh, trang trí thật trang trọng... Trong tám tháng trên tám trăm thư, thật thế!
Trai tráng trong tỉnh tìm tới tán tỉnh Thủy tới trăm thằng. Tám thằng thân tôi: Thằng Thịnh, thằng Tâm, thằng Thông, thằng Thìn, thằng Thỉ, thằng Trung, thằng Tuy, thằng Tuấn tán tỉnh tài thế, tí ta tí tởn tới tán Thủy, tốn tiền trăm tiền triệu, tiêu tiền tới trắng tay, thua tiếp tục thua. Tám thằng thất thểu tìm tới tôi than thở:
“Thôi! Tiền thế, tài thế, tập tễnh tới tán Thủy thêm thiệt thòi.”
Tôi thích Thủy, tuy thế tôi tỉnh táo tự thấy: trí tuệ tôi tầm thường, tiền tài thiếu thốn, thân thế tiếng thì to, thực tình thanh thế tổ tiên thôi, thân thế tôi thấp tẹt. Tôi trù tính: thư từ tán tỉnh, trật! Tiền tài: trật! Thân thế: trật. Tổ tiên ta từng truyền tụng: tham thì thâm. Thư từ, thân thế, tiền tài... trật trật trật! Thua thua thua! Thủy thích tinh tế, trung thực, thật thà, thế thôi. Tôi tính toán thật tình tiết: từ thị trấn Tân Tiến tận tụy tới thôn Tám tìm Thủy tâm tình, từ từ, từ từ, tránh trắng trợn, tránh thô thiển, thỉnh thoảng thêm tí tranh, thêm tí thơ tặng Thủy, trời thương trời trợ thủ thì tất thành.
Trời thương tôi thật. Tới thôn Tám, thấy Thủy trơ trọi, thui thủi trên thềm, tôi thích thú thấy tôi tính toán trúng.
Tôi trấn tĩnh, từ từ tiến tới tận thềm, thì thầm:
“Thủy! Tôi tên Trí, Trần Trọng Trí, thầy thuốc Tây...”
“Trần Trọng Trí!”, Thủy trầm trồ, “Thầy thuốc trị tim, trị thận, trị toàn thân thể, tiếng tăm truyền tám tỉnh!Trời, trẻ thế! Trẻ thế!” Thủy tấm ta tấm tắc.
Tôi trùng tên thầy Trí, thầy thuốc thiên tài trên tỉnh. Thủy tưởng thế, thật trúng tủ, trời toàn thương tôi!
Thấy tình thế thật thuận tiện, tôi tiếp tục thủ thỉ:
“Thủy, tôi trốn thầy, trốn thủ trưởng, trốn tránh tất thảy, từ thị trấn Tân Tiến tới tìm Thủy!”
Thủy trao tôi tách trà, thẹn thùng:
“Thủy thật tầm thường, tìm Thủy thật trớ trêu...”
Tôi tíu tít:
“Thủy! Thủy! Thủy tránh tự ti. Thủy thật tuyệt trần, tiếng thơm truyền từ tỉnh Thanh tới tỉnh Thừa Thiên, thật thế!”
“Thầy Trí tưởng thế thôi...”, tiếng Thủy trong trẻo, thánh thót.
Tôi thủng thẳng tán tỉnh, thầm thầm thì thì, tu từ thật tốt, thỉnh thoảng thêm tí thán từ. Thấy Thủy thinh thích, tôi tấn tới, thả từng tiếng thật tha thiết:
“Tháng tư, tôi trông thấy Thủy tha thướt trong thị trấn. Tôi thảng thốt: Trời, tiên từ trên trời tới thị trấn! Từ tháng tư tới tháng tám, tối tối tôi thao thức, trằn trọc. Tâm thần tôi trục trặc, thân thể tiều tụy. Tưởng tượng thấy Thủy trẻ trung, tươi tắn, tôi thổn thức: Thiếu thủ trưởng thì thảnh thơi, thiếu trời thì tổn thọ, thiếu Thủy thì tắc thở! Thủy! Trái tim tôi tràn trề tình thương Thủy. Tôi tìm tới Thủy trao trọn trái tim thật thà, trái tim trong trắng, trái tim thân thương, trái tim trẻ trung, trái tim trung thực... Tôi thề, tôi trao trọn!”
Thấy tôi thề thốt thật tha thiết, thật tận tình, Thủy thấy thương thương, thẹn thò túm tóc thỏn thẻn:
“Thôi thôi, Trí thôi thề thốt...”
Thủy tin tôi, thật tuyệt! Thế thì tôi toàn trúng tủ, thật tuyệt! Tôi từ thủ thỉ tâm tình tiến tới thề thốt trầm trọng, toàn từ to tát:
“Thủy tin tôi, thương tôi thì tôi thôi thề thốt. Thủy thiếu tin tưởng thì tôi tiếp tục thề. Tôi thương Thủy, tha thiết trao trọn tình tôi tới Thủy. Thủy tuyệt tình tôi thì tôi tự tử. Tôi theo Thủy tới trăm tuổi, tôi tuyệt tình Thủy thì tôi tắc tử!”
“Trí!”, Thủy thổn thức, “Thủy tin Trí, thương Trí...”
Tôi trúng to, trúng to!
Trăng tròn tháng tám thấp thoáng trong tre, trời thu tươi tốt, tiếng thu thánh thót. Tôi tấn tới tìm tay Thủy. Tay Thủy trong tay tôi.
“Thủy... Trí thương Thủy, thương tới tận tim...”, tôi thì thầm, từ từ thơm tay Thủy.
Thủy thẽ thọt từng tiếng, từng tiếng thật thương:
“Tính Thủy thật thà, thương thì thương thật. Trí tâm tình thế, Thủy tin. Tất thảy tình thương, Thủy trao trọn. Thủy tin: tình ta thắm thiết!”
Tới tháng thứ tám, tôi trâng tráo tuyệt tình Thủy. Tôi trốn tránh Thủy. Thủy tất tả tìm tôi từ tháng tám tới tháng tư, từ tỉnh Thừa Thiên tới tỉnh Thanh thì thấy tôi. Thủy túm tay tôi tấm tức:
“Trí! Thủy tìm Trí...”
“Tìm tôi? Tôi tiền thì thiếu, tài thì thấp. Tìm tôi thật trớ trêu.”
“Trí!”, Thủy tức tưởi thét to.
Tôi thong thả từng tiếng:
“Tình ta thế thôi. Thương tôi, Thủy tất thiệt thòi.”
“Trí!’’, Thủy thút thít, “Thủy trúng thai...’’
“Trúng thai?’’, Tôi trơ tráo tủm tỉm. “Thông tin thật trơ trẽn!’’
“Trời, thằng tráo trở! Thật tởm!” Thủy tức tối thét.
Thủy tát tôi tới tấp, thụi tôi tứ tung, toàn thân tôi thâm tím. Tóc tai Thủy tơi tả, tay túm tóc tôi, tay thụi trúng thận tôi.
“Thôi!”, Tôi trợn tròng, thét. “Tôi thế thôi, Thủy trách tôi thì trách! Tránh!” Tôi tức tốc thúc Thủy tránh tôi.
Tránh thoát Thủy, tôi túc tắc tới tám tư - Tô Tịch tìm Thanh Trà.
P/s : Nếu có ai đọc ròy thì đừng nói em spam.Em đọc xong lẹo cả cái lưỡi.
Chuyện cô Cúc ( Toàn chữ C ) :
Cô Cúc con cụ Cả Cần. Cô cao cao , chân cong cong. Của cải cô chẳng có chi, chừng chục cái chén cổ, cái chày, cái cối, con chó Cún cùng con cu cườm. Cạnh chỗ cha con cô còn có chú Chệt Cụt chân cùng cha con cậu Cường. Chú Chệt cụt chân chắp cái chân cây chạy cồm cộp. Còn cậu Cường coi cũng chì chì. Cậu có cả chục cái chứng chỉ. Cha cậu cố chạy chọt cho cậu chức chủ Chành chi cuộc chợ Cầu Công, cuộc chạy chưa có chi chắc chắn. Cậu cứ chê cha chẳng chửng chạc chi cả, coi chán chết.
Chưa chẳn chín chục cụ Cả Cần cảm cúm chết. Cảnh cô Cúc cơ cực chẳng có chi chôn cất cho cha, Cô Cúc cầm con chó cún cùng con cu cườm cho chú chệt cụt chân. Cảm cảnh cô, chú Chệt cấp cho cô chiếc chiếu, chục cam, cùng con cá chép cho cô cúng cha. Cô Cúc chỏng chảnh chê cam chua , cá chết, chiếu chật chẳng chịu cầm. Chú Chệt cáu, chụp con cu cườm chặt cái cẳng, chụp con chó cún chẹt cái cổ . Chim cùng chó chỉ Còn cục cựa chút chút, cuối cùng chết cả cặp. Có các cụ can, cuối cùng chú Chệt cũng chôn cất cụ Cả cho cô Cúc.
Cậu Cường cảm cô Cúc. Cậu cà chớn chẳng chịu cưới Cô Cúc chán chường chuyện cũ. Cô cần có chồng. Cô chịu cho chú Chệt cụt chân cưới cô. Chưa có con cái chi, chó chị Chín cắn chú Chệt. Cô Cúc cố cấp cứu cho chồng chú Chệt cứ chết. Cô Cúc côi cút cứ chảnh. Cậu Cường chì chiết " chẳng chịu Cường chừ cơ cực cho chừa"
Chuyện Cô Cúc chẳng có chi , các cậu chớ có cười!