K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

6 tháng 7 2019

. Các dạng của phép điệp và hiệu quả nghệ thuật trong đoạn thơ

– Các dạng của phép điệp: điệp từ (của, những, nước, chúng ta,…); điệp ngữ (đây là của chúng ta); điệp cấu trúc cú pháp (Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta; Những cánh đồng…/ Những ngả đường…/ Những dòng sông…).

– Hiệu quả nghệ thuật: góp phần tạo nên nhịp thơ dồn dập, âm hưởng hào hùng, giọng điệu hùng biện; tạo sự xuất hiện liên tiếp của hình ảnh, mở ra bức tranh toàn cảnh một giang sơn giàu đẹp; khẳng định mạnh mẽ quyền làm chủ và bộc lộ mãnh liệt niềm tự hào của tác giả.

6 tháng 7 2019

Đoạn thơ trích trong "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi sử dụng nhiều phép tu từ: Điệp cấu trúc, điệp ngữ "là của chúng ta"; từ chỉ định "đây" như sự khẳng định chắc chắn chủ quyền của dân tộc. Đặc biệt hình ảnh trời xanh là hình ảnh vừa chân thưc, lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do cho những gì cao đẹp nhất của con người. biện pháp liệt kê, hoán dụ. Ngoài ra đoạn thơ sử dụng từ láy, tính từ, danh từ linh hoạt,...
=>Tất cả các biện pháp nghệ thuật trên nhằm bộc lộ tình cảm mến yêu tha thiết của tác giả và lòng tự hào về đất nước, về truyền thống lịch sử với con người hiên ngang bất khuất, chưa bao giờ gục ngã.

a) Đoạn thơ viết theo thể thơ : Tự do

Đặc điểm nổi bật :

+ Cấu trúc thế giới hình tượng trong thơ tự do

+ Nhịp điệu

+ Ngôn ngữ thơ tự do

b) Từ láy : bát ngáy, rì rầm.

c) Biện pháp so sánh là nổi bật nhất. Đoạn có biện pháp tu từ là nhân hóa và so sánh.

d) Đất nước gợi lên qua hình ảnh : trời xanh, núi rừng, cánh đồng, dòng sông, con đường,....

e) Nội dung : Nói về hình ảnh đất nước Việt Nam là của chúng ta, ta phải biết tôn trọng kính yêu các hình ảnh mà thiên nhiên ban tặng cho đất nước.

6 tháng 8 2019

a, Thể thơ tự do( 7 chữ)

Số chữ trong mỗi câu không hạn định : ít nhất một từ, và nhiều thì có thể trên một chục từ. -Số câu cũng không hạn định, và không chia ra thành khổ 4 câu như cũ nữa -Không có những khái niệm về Niêm , Luật, Đối . -Về Vần : cũng không có một luật lệ cố định nào. Nói chung là vần muốn gieo ở đâu cũng được cả.

b,Ý nghĩa tu từ của từ láy “rì rầm”: vừa có tính tả thực vừa có tính tượng trưng, gợi tiếng nói cha ông xưa luôn hiện diện cùng con cháu hôm nay, nhắc nhủ về truyền thống bất khuất của giống nòi.

c,Hiện lên qua hình ảnh rất sinh động ; chân thực; gần gũi . Là một đất nước tươi đẹp; rộng lớn ; màu mỡ ; phì nhiêu; tràn đầy sức sống

d,Đoạn thơ thể hiện niềm vui lớn về quyền làm chủ đất nước, niềm tự hào về tinh thần bất khuất của con người Việt Nam.

1) Cho đoạn văn sau:- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không...
Đọc tiếp

1) Cho đoạn văn sau:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng, và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn

Từ đoạn văn trên và những hiểu biết xã hội,em hãy viết đoạn văn nêu suy nghĩ về lòng yêu nước  (Khoảng 2/3 trang giấy thi)

0
14 tháng 5 2019

1.Mở bài

  • Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề nghị luận.

Bản đồ thế giới ghi tên Việt Nam, cả thế giới công nhận một đất nước bé nhỏ mà hùng cường với lòng yêu nước luôn cồn cào trong huyết quản mỗi con người Việt Nam. Chính lòng yêu nước ấy đã trở thành niềm tự hào của cả dân tộc.

2. Thân bài

a) Giải thích

  • Lòng yêu nước là tình yêu đối với nơi mình sinh ra, lớn lên, là yêu đồng bào, yêu Tổ Quốc. Lòng yêu nước được hình thành từ những tình cảm bình dị, gẫn gũi mà rất đỗi thiêng liêng. Ê-ren-bua đã từng khẳng định:” lòng yêu nhà, yêu làng xóm trở nên tình yêu Tổ quốc”. Yêu nước để rồi ta sống một cuộc sống đầy tình thân, tình nghĩa và luôn thường trực ước mong cho đất nước ngày càng phồn thịnh, phát triển.

b) Đặc điểm

  • Lòng yêu nước của nhân dân ta từ lâu đã trở thành một truyền thống quý báu được gìn giữ và phát triển. Lòng yêu nước của ta có lúc ẩn mình, có lúc lại bùng lên mãnh liệt, đem tất cả những thăng trầm gian khó, những đau thương mất mát đều hóa thành niềm tự hào hiêu hãnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết:” Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

c) Biểu hiện và ý nghĩa

  • Lòng yêu nước của dân tộc ta được biểu hiện rõ nhất trong các cuộc kháng chiến trong lịch sử.” Ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,...” Những vị anh hùng đó, họ đều là tiêu biểu cho một dân tộc Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, hàng triệu trái tim từ những cụ già râu tóc bạc phơ đến những em nhỏ, những kiều bào nước ngoài cungz đề hướng về lý tưởng của dân tộc: đánh giặc, giành lại độc lập, hòa bình cho đất nước. Những người mẹ, người bà, người chị nơi hậu phương “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” không ngừng thi đua tăng gia sản xuất, chi viện lương thực thực phẩm cho bộ đội tiền tuyến. Trên khắp các chiến trường lửa bom ác liệt, các chiến sĩ quyết đem tất cả tinh thần, sức lực, máu xương cống hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Chính tình yêu nước mãnh liệt ấy đã trở thành nguồn sức mạnh kì diệu đem lại chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta trước kẻ thù tàn bạo với vũ khí hiện đại.
  • Lòng yêu nước trong thời bình tuy không mãnh liệt nhưng được thể hiện rất rõ qua tình yêu thiên nhiên đất nước. Chúng ta yêu từng nhành cây, ngọn cỏ, ngọn núi, con sông, từng mái nhà. Yêu luôn cả những âm thanh trong trẻo bình dị gần gũi. Chúng ta yêu và bảo vệ nền hòa bình mà cha ông ta khi xưa đã hi sinh để giành lấy.
  • Yêu nước, chúng ta yêu cả con người- đồng bào máu thịt. Yêu những người thân thương, mến trẻ, kính già, biết ơn thầy cô, hiếu thảo với cha mẹ. Lòng yêu nước còn khiến ta thương cả những cảnh đời cơ nhỡ, bất hạnh, giúp đỡ những anh hùng liệt sĩ có công với cách mạng, những bệnh nhân hiểm nghèo,...

d) Mở rộng

  • Tuy nhiên đáng buồn là hiện nay vẫn còn những thanh niên sống với thứ tình cảm và tư tưởng sai lệch. Họ quên đi đất nước, chỉ nghĩ đến bản thân. Họ phán xét, chê trách, thậm chí là phá hoại đất nước nguồn cội của mình.

3. Kết bài

  • Nêu cảm nghĩ

Lòng yêu nước là thứ tình cảm thiêng liêng và vô cùng cần thiết đối với mỗi con người. Đất nước phát triển là nhờ vào tình yêu nước của nhân dân ta.

14 tháng 5 2019

I. Mở bài: giới thiệu tinh thần yêu nước của nhân dân ta

Ví dụ:

Dân tộc ta từ xa xưa đã có tinh thần yêu nước và truyền thống đó dã trở thành truyền thống của dân tộc ta bao đời nay. Tinh thần yêu nước từ xa xưa đã thể hiện trong nhân dân ta là những anh hùng đã hi sinh vì sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc, cho tổ quốc ta.

II. Thân bài: nghị luận tinh thần yêu nước của nhân dân ta

1. Lòng yêu nước là gì:

  • Ngày xưa : là đứng lên chống giặc ngoại xâm, hi sinh anh dũng vì sự nghiệp độc lậo tự do của dân tộc,….
  • Ngày nay : là xây dựng, bảo vệ tổ quốc, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình, yêu thương đùm bọc lẫn nhau,….

2. Biểu hiện của lòng yêu nước :

  • Cầm sung chiến đấu
  • Tăng gia sản xuất
  • Yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau

3. Những tấm gương có tinh thần yêu nước :

  • Võ Thị Sáu
  • Kim Đồng
  • Nguyễn Văn Thạc

4. Trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay :

  • Dối với học sinh : ra sức học tập, nỗ lực rèn luyện phấn đấu trong học tập, rèn luyện thân thể, thể thao,….
  • Dối với nhân dân : ra sức bảo vệ, phản đối những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội,….

III. Kết bài : nêu cảm nghĩ của em về tinh thần yêu nước của nhân dân ta

Ví dụ :

Tinh thần yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chúng ra hãy ra sức phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc.

28 tháng 11 2019

                 “Mặt trời xuống biển như hòn lửa

                                                    Sóng đã cài then,đêm sập cửa

                                                    Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

                                                    Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.

+ Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

                                                  “Mặt trời xuống biển như hòn lửa

                                                   Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

_Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long- ở hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi,giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc đó, xung quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa – một quả cầu lửa– đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên. -> Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.

_ Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa”  -> người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa.-> Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.

+ Thiên nhiên vũ trụ là cái phông, cái nền cho con người xuất hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

_ Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm.

_ Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển.

_ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả…

-  Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:

                                                    “ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

                                                      Cá thu biển Đông như đoàn thoi

                                                      Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,

                                                      Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp:

- Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương.

- Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng”

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

+ Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng nước.

+ Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận,bủa lưới vây giăng.

-> Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.

- Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ,độc đáo: 

                                              Cá nhụ cá chim cùng cá đé

                                             Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

                                             Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ - những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.

+ Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: 

                                                      "Đêm thở :sao lùa nước Hạ long" 

Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.

- Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá nhưl òng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

+ “Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người.

+ Người dân chài hát bài ca gọi cá, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có, nhân hậu.

- Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

....

- Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ.

- Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân.

- Phép tu từ nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”cho thấy tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. Đúng như lời bình của chính tác giả: “Bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.

- Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu phấn chấn.

- Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…

Ti-ck nha