Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
vì ở nông thôn có không khí không bị ô nghiễm, ít tiếng ồn hơn và cảm thế mát mẻ (là điều ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh khí hậu toàn cầu ngày càng ấm nóng lên).
chúc bạn học tốt nha
vì phụ huynh ở những vùng thiểu số thường có xu hướng sinh con để giúp phụ việc cho họ, dễ kiếm sống hơn và cũng có môi trường tương đối để đẻ.
Tục ngữ, ca dao là kho tàng kinh nghiệm vô cùng quý báu nói về tình cảm, về kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh dựng nước và bảo vệ đất nước.Một trong những câu ca dao nói về sức mạnh của sự đoàn kết:”Một cây làm chẳng nên non,ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Đọc câu ca dao trên, ta thấy ý nghĩa của nó thật sâu sắc.Một cây sẽ yếu ớt, mong manh trước cuồng phong bão táp.Nhiều cây chen chúc, sát cánh bên nhau sẽ tạo ra khóm cây,rừng cây vững chãi, gió lay chẳng đổ, bão rung chẳng rời. Từ hình ảnh thiên nhiên, ta liên tưởng đến cuộc sống của con người. Đó chính là tập hợp ý chí, sức lực, hành động của nhiều người tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên những thành công lớn mà tập thể nhỏ hay cá nhân không thể làm nên được.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta từ xưa đến nay là nguồn gốc của bài học ấy và cũng là sự chứng minh hùng hồn cho câu tục ngữ:”Một cây làm chẳng nên non,ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, nhất tề đứng lên giết giặc cứu nước. Khối đại đoàn kết toàn dân góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chín năm thần thánh.
Nếu cuộc kháng chiến chống Pháp khẳng định tinh thần đoàn kết của nhân dân ta thì cuộc kháng chiến chông Mỹ là một bản anh hùng ca đáng tự hào về dân tộc. Đương đầu với nửa triệu giặc Mỹ xâm lược có pháo đài bay, có hàng rào điện tử, nhân dân hai miền Nam Bắc nước ta đã xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tron mặt trận giả phóng miên Nam và trong mặt trận tổ quốc Việt Nam làm nên thắng lợi vẻ vang kết thúc hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ bằng chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 vang dội lịch sử, chấn động địa cầu.Đoàn kết là sức mạnh vô địch, là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, điều đó đã trở thành chân lý,truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Từ xưa đến nay, trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã thực hiện tốt bài học đoàn kết ấy nên luôn giành được thắng lợi,giữ vững được độc lập, thống nhất tổ quốc. Tinh thần đoàn kết ấy được ông bà ta truyền dạy từ đời này qua đời khác và trở thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Một cây làm chẳng lên non cũng như sức mạnh của một con người yếu ớt khó có thể mà đứng vững trước phong ba bão tố, khi có khó khăn dễ dàng bị quật ngã. chỉ có ba cây chụm lại, nhiều người cùng chung sức thì mới có sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách. Không những tinh thần đoàn kết đem lại những thắng lợi vĩ đại trong chiến đấu, mà còn đem lại những thành công to lớn trong lao động sản xuất.Ngắm nhìn những con đê hùng vĩ hai bên bờ sông Hồng , ta thật ngạc nhiên trước sức mạnh của người xưa đã đắp nên những con đê ấy. Ai đã đắp nên những con đê ấy? Không riêng ai cả.Hàng chục triệu con người đã dùng bàn tay nhỏ bé với công cụ lao động thô sơ,đắp từ thủa xưa và tiếp tục đắp suốt ba, bốn nghìn năm nay. Đó là công trình tuyệt vời và sức mạnh của sự đoàn kết và là minh chứng cho câu ca dao:”Một cây làm chẳng nên non,ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Ngày nay, do không chỉ biết đoàn kết nhân dân trong nước và hợp tác quốc tế,nhân dân ta đã xây dựng ngành công nghiệp dầu khí Vũng tàu, các nông trường cà phê, cao su… nhân dân ta đã và đang hoàn thành các công trình xây dựng to lớn: nhà máy thủy điện sông Đà, đường dây tải điện 500KV Bắc Nam…và còn biết bao công trình to lớn khác đã đang và sẽ mọc lên như muốn nói với bạn bè năm châu rằng đất nước chúng tôi tuy nhỏ bé nhưng luôn đoàn kết với nhau và luôn tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để xây dựng một Việt Nam giàu đẹp, phồn vinh sánh kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
Tóm lại, trải qua hàng mấy chục thế kỷ, câu ca dao của ông cha ta vẫn là một chân lý không gì lay chuyển được. đó là một bài học sâu sắc nhất mà nhân dân Việt Nam đã rút ra trong cuộc sống hàng ngàn năm của mình. chúng ta càng hiểu vì sao Bác Hồ căn dặn thế hệ sau rằng:”Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bài thơ Sông núi nước Nam, thì ở Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trả lời
Bạn xem tại link này:
Câu hỏi của Quỳnh Luna - Ngữ văn lớp 8 | Học trực tuyến
~ Mik ko biết có bại lạc đề không?~
Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
- Nước sông Thương bên đục, bên trong
-Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà có thánh sinh
-Đền nào thiêng nhất xứ thanh
Ở trên tỉnh Lạng Sơn có thành tiên Xây
Bác Hồ từng tự sự: "Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?". Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ "Nhật kí trong tù” từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Toát lên từ tập thơ là một tinh thần "thép" rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ "Đi đường" là một trong những số ấy.
“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”.
Bài thơ được dịch là:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Đường chuyển lao không những dài dặc mà còn vô cùng gian lao, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hun hút hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau vẫn bừng lên ý chí “thép” mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Bài thơ “Đi đường” - “Tẩu lộ” đã thể hiện rõ điều đó.
“Đi đường mới biết gian lao”
Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì?
“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"
Đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. “Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại", câu thơ mang ý nghía: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tớỉ hai chữ “trùng san", huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, mới chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ. Nếu tù nhân là một người tù bình thường, ắt hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm cho yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:
“Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”
Hai câu thơ được dịch khá sát là:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Sau những vẩt vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vi “muôn trùng nước non”. Theo tâm lí thông thường, trên con đường gian lao trập trùng đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người dễ lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống núi dốc thẳm cheo leo và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh thì ngược lại. Điều Người cảm nhận là niềm tự hào, sung sướng khi được đứng từ trên đỉnh cao chiêm ngưỡng sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hào sảng. Nó gợi đến hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện trước cái mênh mông, trập trùng của giang san. Con người ấy không choáng ngợp trước sự kì vĩ của đất trời mà rất vui sướng, bồi hồi như lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy gương mặt của nước non. Chính cảm quan ấy đã nâng vị thế con người sánh ngang tầm non nước. Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người, ở Hồ Chí Minh Người đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc đời. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cách mạng của bản thân mình. Đó là tinh thần thép là vẻ đẹp tâm hồn Bác.
Bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ "Nhật kí trong tù" thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.
Đỉnh Olympia :) mình nghỉ vậy đỉnh = núi
là cái gì