Nhận xét về nhạc điệu (thể hiện qua vần, nhịp, phối thanh, cấu trúc lặp...) của bài t...">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1 2024

Bài thơ viết theo thể thơ tự do, gần như không có vần, nhịp thơ chậm rãi khiến giọng điệu bài thơ có sự giản dị, trầm lắng, dồn nén, hàm súc, giàu chất suy tưởng.

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1 2024

- Thể thơ thất ngôn, từ ngữ mang màu sắc cổ điển, nhiều từ Hán Việt và nhiều hình ảnh lấy từ văn học cổ, nhịp 4/3 cổ diễn, vần chân, vẫn chính, sử dụng nhiều âm tiết mở (ân, inh, anh, ê). Tất cả tạo nên âm hưởng hoài cổ, nhạc điệu âm vang cho bài thơ, giúp người đọc hình dung tiếng đàn vang xa trong đêm trăng.

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. TRÀNG GIANG − DÒNG SÔNG CỦA NỖI NIỀM NHÂN THẾ      (1) Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi. Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái "tĩnh" của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm "tĩnh"...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

TRÀNG GIANG − DÒNG SÔNG CỦA NỖI NIỀM NHÂN THẾ

      (1) Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi. Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái "tĩnh" của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm "tĩnh" là gốc của "động", "tĩnh" là cội nguồn của thế giới. Cùng với nó, "tĩnh tại" và "thanh vắng" cũng trở thành tiêu chuẩn mĩ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái "tĩnh vắng mênh mông" trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không − một hư không chứa đầy âm nhạc, chứ không phải hư không trống rỗng. Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng của Tràng giang được cảm nhận bằng nỗi cô đơn, bơ vơ. Có lẽ vì thế mà Tràng giang còn là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng. [...]

     Và sự phủ định cuối cùng "không khói hoàng hôn..". Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng cổ điển của "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén. Ngày vắng xem hoa bợ cây" (Nguyễn Trãi), "Lác đác bên sông chợ mấy nhà" (Bà huyện Thanh Quan), hay "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo" (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế! Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi cô đơn đến tuyệt đối. Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh thế này, hơn nghìn năm trước, Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

     Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu! Nhớ nhà như là để vượt thoát, để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn cố hữu mà thôi:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác: tiếng sóng của lòng quê! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất?

     (2) Đứng trước dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta nó vẫn chảy thế này. Nghìn năm sau, khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng giang vẫn điềm nhiên, dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn và hình như trong bài thơ, Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy rồi thể hiện một cách tinh vi trong âm hưởng chảy trôi thao thiết của ngôn từ. Những từ láy nằm rải trong chiều dài bài thơ, nhất là láy nguyên: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn... không chỉ gợi được sự đường bệ, mà còn gợi được nhịp triền miên. Những cặp câu tương xứng như trùng lặp, nối tiếp, đuổi nhau không ngừng nghỉ: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song". Các vế câu vừa cắt rời, vừa kết nối lên tiếp như một chuỗi dài tạo ra nhịp chảy trôi, rong ruổi, miên man: "Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu". Rồi những từ, cụm từ chỉ sự trùng điệp, nối tiếp ở cuối các câu: "hàng nối hàng", "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng",... tất cả những yếu tố ngôn từ ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau, phụ họa lẫn nhau, tạo thành một âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ này khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt: có một dòng tràng giang thầm chảy trong âm điệu. Và ta như nghe thấy dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian từ thuở khai thiên lập địa, chảy miết qua các thời đại mà về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang?

     (3) Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xóa được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này: mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng Tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó?... Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ? Mà dường như cũng là của một người già? Bởi vì tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng?

(Theo Thơ Huy Cận − Tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội, 2007, tr. 356 − 361)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. 

Câu 2.  Trong phần (3), người viết đã thể hiện cảm xúc, thái độ gì?

Câu 3. Trong phần (1) của văn bản, tác giả đã chỉ ra nét khác biệt nào của Tràng giang so với thơ xưa khi cùng tái tạo cái "tĩnh vắng mênh mông"?

Câu 4. Trong phần (2) của văn bản, tác giả đã phân tích những yếu tố ngôn ngữ nào của bài thơ để làm sáng tỏ "nhịp chảy trôi miên viễn" của tràng giang?

Câu 5. Em ấn tượng nhất với đặc điểm nào của bài thơ Tràng giang được phân tích trong văn bản? Vì sao?

1

Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận (kết hợp với phân tích, bình giảng).


Câu 2.
Trong phần (3), người viết thể hiện cảm xúc bâng khuâng, cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không gian rộng lớn và dòng chảy của thời gian. Thái độ là sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng cô đơn của nhân vật trữ tình trong Tràng giang, đồng thời tự soi chiếu, liên tưởng bản thân như một cành củi khô hay cánh chim nhỏ bé trên dòng đời mênh mông.


Câu 3.
Trong phần (1), tác giả chỉ ra sự khác biệt:

  • Thơ xưa: cái “tĩnh vắng mênh mông” thường gắn với sự thanh thản, an nhiên, tự tại.
  • Tràng giang (Huy Cận): cái “tĩnh vắng” ấy lại gợi lên sự cô đơn, quạnh hiu, trống trải đến tuyệt đối, làm dấy lên nỗi nhớ nhà thường trực trong lòng người.

Câu 4.
Trong phần (2), tác giả đã phân tích nhiều yếu tố ngôn ngữ của bài thơ để làm rõ “nhịp chảy trôi miên viễn” của tràng giang:

  • Các từ láy: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn… gợi sự triền miên, nối tiếp.
  • Các cặp câu tương xứng, đuổi nhau: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song”.
  • Cấu trúc trùng điệp, nối tiếp: “Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu”.
  • Cụm từ chỉ sự nối dài, liên tục: “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”…
    → Tất cả tạo nên một nhịp điệu chảy xuôi vô tận, miên viễn của Tràng giang.

Câu 5.
(Trả lời mở, gợi ý như sau)

Em ấn tượng nhất với cảm giác cô đơn, lạc lõng của con người trước không gian và thời gian vô tận trong Tràng giang. Bởi vì qua đó, em nhận ra tấm lòng tha thiết của Huy Cận đối với quê hương, đồng thời cảm nhận được nỗi niềm nhân thế sâu xa: con người dù nhỏ bé, cô đơn vẫn luôn hướng về cội nguồn để tìm điểm tựa tinh thần.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
29 tháng 1 2024

Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ xao xuyến, rộn ràng. Được tạo bởi các yếu tố:

- Những câu thơ năm chữ ngắn gọn

- Nhịp thơ lúc nhịp nhàng, lúc dồn dập

- Vần thơ: đa dạng, linh hoạt bằng các vần chân, vần cách, gợi hình ảnh các đợt sóng nối tiếp nhau.

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
23 tháng 8 2023

- Nhịp thơ thường nhẹ nhàng, gợi dư âm sóng biển:

Dữ dội / và dịu êm (2/3)

Ồn ào / và lặng lẽ (2/3)

Sông / không hiểu nổi mình (1/4)

Sóng / tìm ra tận bể (1/4)

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
31 tháng 1 2024

- Ngôn ngữ hát nói được tác giả sử dụng trong văn bản không chỉ đa dạng mà nó còn làm nổi bật phong cách nghệ thuật, tài hoa của Nguyễn Công Trứ. Đó là giọng điệu của một người khí phách, luôn mong muốn có cuộc sống tự do, được thể hiện cá tính của mình.

- Ông đã vượt qua những hủ tục phong kiến thông thường, dám sống đúng với bản chất của mình. Giọng điệu hào hứng, vui tươi thể hiện một cuộc sống phóng khoáng, thoải mái. Nhưng ẩn sâu trong đó là một thái độ khảng khái, cương quyết, dứt khoát, tràn trề sức sống nhưng vẫn mang đậm tư tưởng, tinh thần trung quân ái quốc của một vị quan mẫu mực.

5 tháng 11 2021

Hai bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương và Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan đều là thể loại thơ thất ngôn bát cú, tuân thủ nghiêm chỉnh luật đối. Cả hai bài đều là những dòng tâm trạng, những nỗi niềm của nhân vật trữ tình, nhẹ nhàng mà sâu lắng.Đó là nỗi buồn về tình duyên lỡ làng của Hồ Xuân Hương và nỗi nhớ thương quê hương của Bà Huyện Thanh Quan.

Tuy nhiên, giữa hai bài thơ có sự khác nhau về ngôn ngữ, cách dùng từ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương dùng nhiều từ ngữ trong ngôn ngữ hàng ngày như: tiếng gà văng vẳng, mõ thảm, chuông sầu, những tiềng rền rĩ, khắp mọi chòm…; kể cả những từ ngữ rất khó dùng như: cớ sao om, duyên mõm mòn, già tom. Trong bài chỉ có một câu nhiều từ Hán Việt là: Tài tử văn nhân ai đó tá?. Trong khi bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại dùng rất nhiều từ Hán Việt: hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, cô thôn, lữ thứ, hàn ôn… nhiều từ ngữ mang tính ước lệ, được dùng nhiều trong thơ cổ như : ngàn mai, dặm liễu. Mặc dù vậy, ngôn ngữ của hai người vẫn có những nét tương đồng đó là những chi tiết mang đậm những nét dân tộc, nó mang một âm điệu nhẹ nhàng và cũng tạo nên cho tác giả những chi tiết đặc sắc và hình ảnh được sử dụng cũng ngày càng phong phú hơn.

Chính những sự khác nhau trên đã tạo ra sự khác nhau về phong cách: Đó chính là bài thơ của Hồ Xuân Hương có phong cách, có xu hướng gần gũi với đám đông hơn. Trong khi đó bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan thì nhã nhặn, đài các, sang trọng nó thể hiện tiếng nói của văn nhân trí thức thượng lưu. 

Hai bài thơ là hai tâm trạng của hai con người về những nỗi niềm riêng, chứa đựng những tình cảm sâu sắc của họ. Với phong cách sử dụng ngôn ngữ hay và độc đáo cả hai bài thơ đều là những bài thơ hay, độc đáo và nói lên được tâm trạng của biết bao con người. 

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1 2024

- Vần: vần cách

- Nhịp: Nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng

=> Giúp cho bài thơ trở nên sâu lắng, dễ đi vào lòng người đọc thể hiện rõ vẻ đẹp đặc trưng của bức tranh chiều xuân ở thôn quê.

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.       NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA     Những cuộc chia lìa khởi tự đây,     Cây đàn sum họp đứt từng dây.     Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc,     Lần lượt theo nhau suốt tối ngày...     Có lần tôi thấy hai cô bé,     Sát má vào nhau khóc sụt sùi.     Hai bóng chung lưng thành một bóng,     “− Đường về nhà chị...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

      NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA

     Những cuộc chia lìa khởi tự đây,
     Cây đàn sum họp đứt từng dây.
     Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc,
     Lần lượt theo nhau suốt tối ngày...

     Có lần tôi thấy hai cô bé,
     Sát má vào nhau khóc sụt sùi.
     Hai bóng chung lưng thành một bóng,
     “− Đường về nhà chị chắc xa xôi?”

     Có lần tôi thấy một người yêu,
     Tiễn một người yêu một buổi chiều,
     Ở một ga nào xa vắng lắm!
     Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu.

     Hai chàng tôi thấy tiễn chân nhau,
     Kẻ ở sân toa, kẻ dưới tàu,
     Họ giục nhau về ba bốn bận,
     Bóng nhoà trong bóng tối từ lâu.

     Có lần tôi thấy vợ chồng ai,
     Thèn thẹn đưa nhau, bóng chạy dài,
     Chị mở khăn giầu, anh thắt lại:
     “− Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!”

     Có lần tôi thấy một bà già,
     Đưa tiễn con đi trấn ải xa.
     Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng,
     Lưng còng đổ bóng xuống sân ga.

     Có lần tôi thấy một người đi,
     Chẳng biết vì đâu, nghĩ ngợi gì!
     Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,
     Một mình làm cả cuộc phân ly.

     Những chiếc khăn mầu thổn thức bay,
     Những bàn tay vẫy những bàn tay,
     Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
     Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

                                  (Nguyễn Bính, theo thivien.net)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2. Xác định vần và kiểu vần được gieo trong khổ cuối của văn bản.

Câu 3. Xác định biện pháp tu từ được sử dụng xuyên suốt bài thơ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.

Câu 4. Phát biểu đề tài, chủ đề của bài thơ.

Câu 5. Theo em, yếu tố tự sự được thể hiện trong bài thơ này như thế nào? Hãy phân tích tác dụng của yếu tố ấy trong việc thể hiện cảm xúc, tư tưởng của bài thơ.

0
QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1 2024

Việc lặp lại cấu trúc “Chúng tôi kêu gọi…” có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định tinh thần mãnh liệt, ý chí quyết tâm của Ma-la-la và mọi người đang đứng dậy kêu gọi và chiến đấu vì một cuộc sống tốt đẹp hơn.