Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Mục đích, đối tượng của Tuyên ngôn Độc lập
- Mục đích:
+ Khẳng định chủ quyền nước ta
+ Bác bỏ luận điệu xảo trá, thực dân Pháp rêu rao trên trường quốc tế
+ Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế
- Đối tượng
+ Đồng bào cả nước
+ Nhân dân thế giới, lực lượng thù địch
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận, chan chứa tình cảm
- Nội dung:
+ Xứng đáng áng thiên cổ hùng văn thứ hai của dân tộc
+ Thể hiện tư tưởng lớn của người đứng đầu đất nước, đề cao quyền con người, dân tộc
+ Tầm nhìn văn hóa của vị lãnh tụ vĩ đại, sự am hiểu tri thức nhân loại
- Nghệ thuật
Tuyên ngôn độc lập, áng văn chính luận bất hủ: lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ hùng hồn
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận có khả năng lay động hàng chục triệu trái tim con người Việt Nam
- Đoạn văn khẳng định tinh thần kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm của người dân Việt Nam
- Lời trịnh trọng tuyên bố độc lập “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”
- Khẳng định quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc, tự do
Tuyên ngôn độc lập trở thành áng văn chính luận xúc động lòng người được bộc lộ từ tấm lòng của người viết: đó là tấm lòng yêu nước nồng nàn, tự hào dân tộc mãnh liệt, khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập ở Hồ Chí Minh
Tấm lòng đó đã truyền vào trong từng lời văn tha thiết, tự hào đanh thép, có sức lay động tới triệu trái tim Việt Nam
*Tham khảo:
Tuyên ngôn Độc lập 2 tháng 9 năm 1945 là Tuyên ngôn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nước độc lập do dân làm chủ, thực hiện ba mục tiêu: độc lập, tự do, hạnh phúc. Độc lập là điều kiện để mưu cầu cuộc sống tự do hạnh phúc cho dân.
Nó có ý nghĩa chính trị rất to lớn và có sức sống bền vững.
Trong lúc làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam ở xa Liên Xô, trong thế còn đơn độc. Các thế lực phản động lại biết rõ cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng triệt để, giành độc lập để đi lên chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản, từ năm 1940, Tưởng Giới Thạch đã có kế hoạch “Hoa quân nhập Việt, diệt Cộng cầm Hồ”. Kẻ địch biết và có ý đồ đánh phá như vậy, cho nên về nghệ thuật lãnh đạo, không thể để chúng có chứng cớ và lấy cớ chống cộng mà đánh phá cách mạng Việt Nam.
Từ đó, tên nước được đặt theo văn phạm Trung Quốc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mục tiêu: Độc lập, tự do, hạnh phúc, nghe qua như là cách mạng Việt Nam theo tư tưởng cách mạng tư sản “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Khi chuyển Đảng vào hoạt động bí mật thì tuyên bố giải tán Đảng. Cũng theo hướng đó, Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng nêu cao hai tuyên ngôn của cách mạng tư sản ở Mỹ (1776) và ở Pháp (1791).
Quyết định công bố Tuyên ngôn độc lập và ra mắt Chính phủ lâm thời do Bác Hồ làm Chủ tịch vào ngày 2-9-1945 trước cuộc mít tinh của hàng vạn dân thủ đô Hà Nội, cũng có ý nghĩa quan trọng. Ngày 2-9-1945 là ngày kết thúc thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám trong cả nước và cũng là ngày mà quân đồng minh chưa kịp vào Việt Nam. Nêu cao hai bản tuyên ngôn của cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ và ở Pháp, là hai văn bản nổi tiếng trong lịch sử thế giới cận đại mà ai có học đều biết, Tuyên ngôn Độc lập 2-9 đã chỉ rõ một lẽ phải không ai chối cãi được đó là “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Từ đó, lên án thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta trong 80 năm, trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Mùa thu 1940, rồi ngày 9-3-1945, trong 5 năm thực dân Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật.
Dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật không phải từ tay Pháp. Nêu rõ như vậy là để bác bỏ một lập luận rất vô lý cho rằng, Pháp đã bị mất Việt Nam, nên phải giành lại Việt Nam. Tuyên ngôn đã khái quát tình hình Việt Nam: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” để cho thấy rằng, dân ta lập ra Chính phủ với chế độ dân chủ cộng hòa là việc đương nhiên.
Tuyên ngôn đã khẳng định một quyết tâm sắt đá: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Tuyên ngôn Độc lập được công bố ngày 2-9-1945 đã tạo lý, tạo thế và tạo ra lực lượng đồng tình ủng hộ rộng rãi ở trong nước và trên thế giới đối với cuộc cách mạng Việt Nam. Như vậy Tuyên ngôn không chỉ là động lực mạnh về tinh thần mà đã trở thành một sức mạnh về vật chất để đánh thắng giặc Pháp, giặc Mỹ trong 30 năm.
Lời Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một sự thôi thúc cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cũng theo tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Chủ trương đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập với nền kinh tế thế giới chỉ thành công lớn khi nó làm cho quyền độc lập tự chủ nêu trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 thêm vững chắc. Dân tộc ta tự hào có được Hồ Chủ tịch - Người đã soạn thảo ra bản Tuyên ngôn Độc lập - một vị lãnh tụ vĩ đại có bản lĩnh về trí tuệ, về mưu lược ở tầm cao, rất cao.
Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ mất. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc điếu văn, trong đó có câu: “Dân tộc ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch - người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Câu đó nêu đúng tình cảm vô cùng quý mến đối với Bác Hồ và đã gây xúc động rất mạnh trong lòng mọi người.
Tác phẩm Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận xuất sắc: lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ hùng hồn
- Lý luận thống nhất và chặt chẽ trong toàn bài
- Luận điểm xác thực, không thể chối cãi được
- Lý lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục
- Đanh thép, sắc sảo khi biểu hiện tính chiến đấu, thái độ dứt khoát và bản lĩnh phi thường, sắc sảo ở trí tuệ, lối lập luận
→ Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn, có giá trị lịch sử lớn lao
xin lỗi nhéNgộ cute .tớ viết nhầm bạn vào phần 1 nhé
hần 1: từ đầu đến “không ai có thể chối cãi được”: Nêu nguyên lí làm cơ sở lí luận và tư tưởng cho bản tuyên ngôn: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
– Phần 2: tiếp đến “phải được độc lập”: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Chứng minh thực dân Pháp là kẻ làm trái nguyên lí; nhân dân ta là người thực hiện đúng nguyên lí đã tự đứng lên giành chính quyền. Đập tan âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp và xoá bỏ tất cả các đặc quyền, đặc lợi của chúng ở nước ta.
– Phần 3: Đoạn còn lại: Lời tuyên bố quyền độc lập, tự do của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với thế giới và ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do độc lập của toàn thể dân tộc Việt Nam.
1. Các bản tuyên ngôn đã được trích dẫn
– Tuyên ngôn Độc lập (năm 1776 của nước Mĩ).
– Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (năm 1791 của Cách mạng Pháp).
2. Ý nghĩa của việc trích dẫn
– Nêu lên những nguyên lí chung về quyền được tự do bình đẳng của con người để khẳng định lập trường chính nghĩa của dân tộc; tạo vị thế bình đẳng giữa Việt Nam với các nước lớn trên thế giới.
– Đưa ra những lí lẽ thuyết phục để chuẩn bị tiền đề cho lập luận ở phần tiếp theo, làm cơ sở cho cả hệ thống lập luận của bản tuyên ngôn
a) Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, tác giả đưa ra dẫn chứng từ hai tuyên ngôn nổi tiếng là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) của Cách mạng Pháp và Tuyên ngôn Độc lập (1776) của nước Mĩ, khẳng định quyền con người và quyền các dân tộc. Cách viết sắc xảo này đã đem lại ý nghĩa sâu sắc cho bản Tuyên ngôn được viết trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ.
b) Đây là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”, “dùng khoá của địch khoá miệng địch”, lấy lí lẽ của nước người để phản bác những âm mưu của chính các nước đó. Tác giả đã rất linh hoạt khi kết hợp ý kiến của người với ý kiến của mình: “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là….”, từ khẳng định quyền con người. Bác đã chuyển sang quyền của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
c) Ra đời trong bối cảnh Chiến tranh Thế giới Thứ hai vừa kết thúc, các nước đồng minh đang tranh giành ảnh hưởng đòi chia quyền kiểm soát nhũng vùng bọn phát xít từng chiếm đóng. Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ nói với nhân dân Việt Nam, các nước trên thế giới mà còn hướng tới bọn thực dân đế quốc, ngăn chặn ngay ý đồ chiếm lại nước ta một lần nữa của thực dân Pháp. Đồng thời khẳng định cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Chống phát xít, chống đế quốc là cuộc đấu tranh chính nghĩa (thực hiện quyền độc lập, tự do, bình đẳng – lẽ phải thông thường mà chính các nước Pháp, Mĩ đã từng tuyên bố), buộc chính các nước thực dân, đế quốc không được phép coi thường, phủ nhận
Đáp án A