K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Em tham khảo nhé :

1. Mở Bài
Giới thiệu bài thơ và lời nhận định:
+ Bài thơ " Đoàn thuyền đánh cá" in trong tập " Trời mỗi ngày lại sáng" là một tác phẩm và thể hiện rõ phong cách thơ Huy Cận sau cách mạng được nhiều người biết đến
+ Từng có nhận định rằng "bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ đầy ánh sáng"

2. Thân Bài
- Giới thiệu khái quát về hoàn cảnh ra đời của bài thơ
- Đây được xem là một bài thơ đầy ánh sáng, đó là ánh sáng của thiên nhiên của vũ trụ bao la, ánh sáng của sự trù phú, thịnh vượng của biển cả, là ánh sáng của niềm tin, của ý chí và nghị lực phi thường bền dẻo của những người lao động.
+ Khúc ca khải hoàn về những người dân chài miệt mài lao động, dẫu khó khăn vẫn hăng say trong công việc của mình.
Những người dân chài ra khơi trong khí thế phấn chấn → Hy vọng một chuyến đi bội thu, đầy cá tôm trở về.
Lời hát cất cao giữa trời biển mênh mông, tiếng hát hào sảng ngợi ca sự giàu có của mẹ biển cũng là khúc hát mời gọi từng đàn cá đến dệt lưới
→ Những lời ca ấy chất chứa "muôn luồng sáng" tuyệt diệu nhất dệt những làn sóng biển thành muôn vàn điều đẹp đẽ.
+ Vẻ đẹp kì vĩ của người lao động trong cuộc chinh phục thiên nhiên
+ Biển cả quê hương giàu đẹp và trù phú với biết bao loài cá
+ Đoàn thuyền trở về trong niềm hân hoan, vui sướng, ánh lên sự lạc quan, phấn khởi.

3. Kết Bài
Bức tranh đoàn thuyền đánh cá của những người làm động làm chủ cuộc sống mới đầy ý vị và giàu chất suy tưởng. Mang đến hy vọng vào một tương lai tươi sáng trong công cuộc xây dựng đất nước

21 tháng 2 2022

Tham khảo;

 

A. Mở bài:

Giới thiệu đề tài mùa thu trong thi ca

Dẫn vào bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: Nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

B. Thân bài.

Khổ 1: Những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.

a. Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình:

Hương ổi phả trong gió se (se lạnh và hơi khô). “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.

Từ “phả”: Động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn → gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của mùa thu, lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát - hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.

Sương chùng chình: Những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làm sương mỏng nhẹ nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn

b. Cảm xúc của nhà thơ:

Kết hợp một loạt các từ: “Bỗng, phả, hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua. hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu thấp thoáng hồn người: Chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng…

Khổ 2: Hình ảnh thiên nhiên sang thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:

Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản

→ gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên thiên mùa thu.

Đối lập với hình ảnh trên là những cánh chim chiều bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét trong buổi hoàng hôn.

Mây được miêu tả qua sự liên tưởng độc đáo bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết:

“Có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu” → Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này. Trong “chiều sông thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”

Khổ 3: Thiên nhiên sang thu còn được gợi ra qua hình ảnh cụ thể: Nắng – mưa:

 

Nắng – hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gay gắt.

Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Từ “vơi” có giá trị gợi tả, diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ.

Hình ảnh ẩn dụ: “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”

+ Ý nghĩa tả thực: Hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).

+ Ý nghĩa ẩn dụ: Sấm: Những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.

→ Gợi cảm xúc tiếc nuối

C. Kết luận: “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.

- Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp

29 tháng 12 2018

1. Giải thích ý kiến của Xuân Diệu
- Có nhiều cách định nghĩa về thơ, có thể nói khái quát: t hơ là một hình thức sáng
tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua cách tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm…
- Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài. Hồn: Tức là nội dung, ý nghĩa của bài
thơ. Xác: Tức là nói đến hình thức nghệ thuật của bài thơ thể hiệ n ở thể loại, việc tổ chức ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, cấu tứ…
- Như vậy, theo Xuân Diệu thơ hay là có sự sáng tạo độc đáo về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, khơi gợi tình cảm cao đẹp và tạo đ ược ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Chỉ khi đó thơ mới đạt đến vẻ đẹp hoàn mĩ của một chỉnh thể nghệ thuật. - Ý kiến của Xuân Diệu hoàn toàn xác đáng bởi nó xuất phát từ đặc thù sáng tạo của văn chương nghệ thuật. Cái hay của một tác phẩm văn học được tạo nên từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức. Một nội dung mới mẻ có ý nghĩa sâu sắc phải được truyền tải bằng một hình thức phù hợ p thì người đọc mới dễ cảm nhận, tác phẩm mới có sức hấp dẫn bền lâu. 2. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là bài thơ hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài.
2. Phân tích, chứng minh
a. Về nội dung
- Bài thơ là cảm xúc mãnh liệt, chân thành của tác giả trước mùa xuân của
thiên nhiên, đất nước.
+ Chỉ bằng vài nét vẽ đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh thân quen, bình dị, nhà thơ đã gợi lên một phong cảnh mùa xuân tươi tắn, thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế: Dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, chim chiền chiện hót vang trời. Bức tranhxuân có không gian thoáng đãng, có màu sắc tươi tắn hài hòa, có âm thanh rộn rã tươi3vui, cảnh vật tràn đầy sức sống. Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân được thể hiện trong một động tác trữ tình đónnhận, vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến: “Từng giọt…tôi hứng”. Hình ảnh thơ trở
nên lung linh đa nghĩa, vừa là thơ vừa là nhạc, vừa là họa, thể hiện được cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân. Phải có một tình yêu tha thiết, một tâm hồn lạc quan với cuộc sống mới có thể đón nhận mùa xuân và viết về mùa xuân như vậy.
+ Từ mùa xuân của thiên nhiê n, đất trời, tác giả cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Hình ảnh lộc xuân theo người ra trận, theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ - hai nhiệm vụ không thể tách rời. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên , đất nước. Sức sống của đất nước, của dân tộc cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nứccủa người cầm súng, người ra đồng. Nhà thơ bộc lộ niềm tự hào về một đất nước anhhùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, sẽ tỏa sáng nhưnhững vì sao trong hành trình đi đến tương lai rự c rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là ý chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. - Trước mùa xuân lớn của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào khát vọng hiến dâng. + Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót dâng cho đời tiếng ca vui, làm bônghoa trong hương sắc của muôn hoa, làm nốt trầm xao xuyến trong bản hòa tấu muônđiệu, muôn lời ca, làm một mùa xuân nho nhỏ để hòa góp chung vào mùa xuân lớnlao của đất nước. Đó là khát vọng sống hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung. Đây là một quan niệm sống đẹp và đầy trách nhiệm. Làm một mùa xuân là sống đẹp, giữ mãi sức xuân để cống hiến, cống hiến khi ở tuổi thanh xuân – khi tóc bạc, bất chấp thời gian, tuổi tác: “Một mùa xuân…tóc bạc”. Đây không chỉ là khát vọng của mỗi con người mà là khát vọng của mọi lớp người, mọi lứa tuổi, tất cả đều phấn đấu không mệt mỏi cho đất nước. + Những câu thơ này không chỉ là lời tự nhắn nhủ bản thân mình mà còn như một sự tổng kết, đánh giá của tác giả về cuộc đời. Vượt lên đớn đau của bệnh tật, Thanh Hải vẫn sáng lên một bản lĩnh, một tình yêu cuộc sống mãnh liệt, một khát vọng mạnh mẽ được cống hiến cả cuộc đời mình, được hóa thân vào mùa xuân đất nước.
b. Về hình thức
- Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà rất hợp lí , chứa đựng chiều sâu chủ đề tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm qua thi phẩm. - Mạch cảm xúc, mạch ý tạo thành tứ thơ tự nhiên mà chặ t chẽ, lô gích, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân. Từ mùa xuân của đất trời sang mùa xuâncủa đất nước và mùa xuân của mỗi người góp vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung.
- Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn không ngắt nhịp trong từng câu, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca miền Trung, xứ Huế. Sử dụng cách gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
- Hình ảnh thơ: Kết hợp những hình ảnh tự nhiên giản dị với những hình ảnh
giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát. Điều đáng chú ý là những hình ảnh biểu trưng này thường được phát triển từ những hình ảnh thực, tạo nên sự lặp lại mà nâng cao, đổi mới của hệ thống hình ảnh (cành hoa, con chim, mùa xuân).4
- Ngôn ngữ thơ hàm súc, gợi hình, gợi cảm. Có những câu thơ cứ như câu nói
tự nhiên, không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Cách sử dụng
nghệ thuật đảo cấu trúc ngữ pháp, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ngữ pháp độc đáo, giàu ý nghĩa. Cách sử dụng đại từ nhân
xưng: “tôi – ta”…
- Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu
có sự biến đổi phù hợp với nội dung từng đoạn: Vui tươi, say sưa ở đoạn đầu; trầm
lắng, thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi và tha thiết ở đoạn kết.
3. Đánh giá, nâng cao
- Sức hấp dẫn từ nội dung và nghệ thuật của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã tác động sâu sắc đến người đọc bao thế hệ, khơi gợi từ tình yêu thiên nhiên đến tình yêu quê hương, đất nước, từ khát vọng nhỏ bé, khiêm nhường của một cá nhân nâng lên thành lẽ
sống cao đẹp giàu giá trị nhân văn. Vì thế với Mùa xuân nho nhỏ ta không thể chỉ đọc một lần, không chỉ đọc bằng lí trí hay tình cảm mà phải đọc bằng cả tâm hồn. - Bài học cho người nghệ sĩ: Những bài thơ hay góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca nhân loại. Vì vậy, bằng tài năng và tâm huyết của mình, nhà thơ hãy sáng tạo nên những thi phẩm hay và giàu sức hấp dẫn từ nội dung đến hình thức . Điều đó vừa là thiên chức vừa là trách nhiệm của nhà thơ, là yêu cầu thiết yếu, sống còn của sáng tạo nghệ thuật. - Sự tiếp nhận ở người đọc thơ: Cần thấy thơ hay là hay cả hồn lẫn xác. Từ đó có sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ để có thể sẻ chia những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng người đọc nhiều thế hệ.

24 tháng 9 2023

Vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường…Tôi, không phải ngoại lệ, cũng có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Vào cái buổi hoàng hôn rực rỡ và huy hoàng, trên cái không gian biển rộng lớn bao la, tôi được ra khơi cùng với những người dân chài lưới. Họ là những con người lao động ra khơi với sức mạnh đoàn kết và niềm vui lạc quan, phơi phới của những người đang làm chủ cuộc đời, ngày đêm chinh phục biển khơi. Họ ra khơi với câu hát ca ngợi sự giàu có của biển cả. Biển Đông giàu có với rất nhiều loài cá quý, nào là cá bạc, cá thu đang lấp lánh giữa biển trăng, là cá nhụ, cá chim, cá đé. Còn những chàng trai khỏe khoắn thì như những người nghệ sĩ khi lướt con thuyền băng băng trên mặt nước, như những người hiệp sĩ khi dàn đan một thế trận hào hùng. Họ bắt đầu nghêu ngao hát, gõ vào thuyền dụ cá vào. Một trong số họ nói với tôi răng "Mỗi ngư dân chúng tôi đều rất biết ơn biển cả, biển cho nguồn sống là cá, biển cho công việc và giúp chúng tôi được lớn lên thành người, biển cả như là người mẹ thứ hai của mỗi người." Thế mới thấy tình cảm của họ dành cho biển cả cũng lớn đến nhường nào. Tờ mờ sáng, khi sao vẫn còn, họ bắt đầu nhanh tay kéo lưới để kịp trời sáng, mẻ lưới đầy cá nặng trĩu, mấy anh chàng chung tay kéo mới lên được. Chuyến ra khơi đã bội thu, các ani xếp lưới, căng buồm quay thuyền trở về. Ra khơi hào hứng bao nhiêu thì trở về càng thêm phơi phới bấy nhiêu. Sau chuyến đi này, hồn tôi như lột xác hoàn toàn, trở nên mới mẻ và tràn đầy sức sống. Tôi bắt đầu sáng tác bài thơ về con thuyền ấy, cùng với đó là nhiều những trang ngơi ca về những người lao động mới...

26 tháng 12 2017

I. Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở Ân Phú, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng ( 1940 ). 

- Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945. Ông được trao tặng giải thưởng Hồ chí Minh về văn học nghệ thuật ( 1996 ). Ông mất năm 2006, tại Hà Nội

Tác phẩm chính: Lửa thiêng ( 1940 ); Trời mỗi ngày lại sáng ( 1958 ); Đất nở hoa ( 1960 ); Những năm sáu mươi ( 1968 ); Chiến trường gần đến chiến trường xa ( 1973 ); Nước thủy triều Đông (1994 )…


- Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của Huy Cận. Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu vào cuộc sống mới bao trùm cả đời sống xã hội và trở thành niềm cảm hứng của thơ ca. Nhiều nhà thơ đi đến các vùng đất xa xôi, nơi đang dấy lên phong trào sản xuất xây dựng đất nước. Giữa năm 1958 huy Cận có chuyến đi thực tế tại dài ngày về vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
 - Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được ra đời vào thời gian này và in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng 

 - Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm, khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh.
- Với bố cục bài thơ như trên, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã tạo một khung cảnh không gian và thời gian và thời gian rất đáng chú ý: không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, mây, gió, trăng, sao; thời gian là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả đất trời vào đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa…rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới. Điểm nhịp cho công việc của đoàn thuyền đánh cá là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ.

 - Bài thơ là sự kết hợp hai nguồn cảm hứng: về lao động và về thiên nhiên vũ trụ. Khác với thơ Huy Cận trước Cách mạng, ở đây thiên nhiên vũ trụ không đối lập với con người, không làm cho con người trở lên nhỏ bé cô đơn, mà càng nâng cao, làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trong sự hài hòa với khung cảnh thiên nhiên.
+ Hình ảnh con người lao động và công việc của họ, ở đây là đoàn thuyền đánh cá, được đặt vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao, để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc và vị thế của con người. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo hình ảnh về người lao động
-Câu hát căng buồm cùng gió khơi
-Thuyền ta lái gió với buồn trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng 
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời[/

+ Sự hài hòa giữa con người lao động và thiên nhiên, vũ trụ còn thể hiện ở sự nhịp nhàng giữa điệu vận hành của thiên nhiên, vũ trụ và trình tự của công việc lao động của đoàn thuyền đánh cá. Khi mặt trời xuống biển, vũ trụ vào đêm cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, và đây là công việc diễn ra thường xuyên, đều đặn như một nhịp sống đã quen thuộc: “ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. 

Con thuyền ra khơi có gió làm lái, trăng làm buồm, gõ thuyền đuổi cá vào lưới cũng theo nhịp trăng, sao. Đến lúc sao mờ, tức là đêm sắp tàn thì cũng là lúc kéo lưới kịp trời sáng. Bình minh lên, mặt trời đội biển, cũng là lúc đoàn thuyền trở về, tuy nặng khoang cá đầy mà vẫn lướt đi phơi phới chạy đua cùng mặt trời[/

- Hình ảnh người lao động trong bài thơ được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui trước cuộc sống mới. Cảm hứng lãng mạn ấy cũng thấm đẫm trong những hình ảnh về thiên nhiên vũ trụ, tạo nên vẻ đẹp tráng lệ, phóng khoáng mà vẫn gần gũi với con người.

]Mặt trời xuống biển như hòn lửa[
Sóng đã cài then đêm sập cửa[/
 Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là cánh tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là then cửa. Chi tiết mặt trời xuống biển có thể gây thắc mắc với người đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà bờ biển nước ta, trừ vùng biển Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển vẫn có thể thấy như mặt trời xuống biển.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
]Câu hát căng buồm cùng gió khơi[
tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi ( câu thơ này đã được lặp lại ở khổ cuối bài thơ, chỉ đổi chữ cùng thành với )
Tác giả đã phát hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình. Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ khổnglồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển, dàn đan thế trận…
]Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa bò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

 Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

 Đây là những bức tranh sơn mài lung linh huyền ảo, được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực.
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi[

Tóm lại: Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ cho ta thấy cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên, đất nước và con người lao động, làm giàu thêm cách nhìn cuộc sống, biểu hiện niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình

26 tháng 12 2017

thuyết minh về bài thơ chứ không có về tác giả