K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 12 2016

điều đó rất đúng vì:Thục phán là người có tài,đã lập được công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần.Về phần vua Hùng,vua Hung đã không lo cho dân chỉ biết ham ăn uống vui chơi nên đã để dân rơi vào khó khăn.leuleutheo mình thì vậy

22 tháng 3 2022

A

B

B

D

22 tháng 3 2022

A

A

B

D

 

25 tháng 3 2018

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nước Âu Lạc tồn tại từ 257 đến 208 TCN. Nhưng sách này cũng ghi chép rằng cuộc kháng chiến chống Tần xảy ra năm 214 TCN và quận Tượng do nhà Tần lập là nước ta là quân Tần đã chiếm được nước Âu Lạc, nhưng sau đó lại chép tiếp cuộc kháng chiến chống Triệu của An Dương Vương từ năm 210 đến 208 TCN. Đây là sự nhầm lẫn và mẫu thuẫn trong chính sử của ta, điều mà các nhà sử học vẫn đang nghiên cứu để xác minh.

Theo giả thuyết về cuộc kháng chiến, liên minh bộ lạc Tây Âu của Thục Phán đã có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nước Văn Lang của Hùng Vương. Mối quan hệ vừa giao lưu, liên kết, vừa đấu tranh, xung đột giữa hai tộc người gần gũi nhau về dòng máu, về địa vực, về kinh tế, văn hóa như vậy là cơ sở và cũng là bước chuẩn bị cho sự hợp nhất hai tộc người Việt – Tây Âu để mở rộng và phát triển nước Văn Lang. Cuộc kháng chiến chống Tần càng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa xu thế phát triển đó.

Âu (Tây Âu, Âu Việt) và Lạc ( Lạc Việt), phản ánh sự liên kết hai nhóm người Lạc Việt và Tây Âu. Trong triều vua Thục vẫn có Lạc hầu và các địa phương vẫn do lạc tướng cai quản. Lãnh thổ nước Âu Lạc cũng được mở rộng trên cơ sở hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Tây Âu. Sự thành lập nước Âu Lạc không phải là kết quả của một cuộc chiến tranh thôn tính, tiêu diệt, mà là một sự hợp nhất cư dân và đất đai của Lạc Việt và Tây Âu, của Hùng và Thục. Vì vậy, nước Âu Lạc là một bước phát triển mới, kế tục và cao hơn nước Văn Lang. Cũng vì vậy, không những người Tây Âu, mà cả người Lạc Việt và con cháu của họ đều coi An Dương Vương Thục Phán là một vị anh hùng có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Theo cuốn dư địa chí Cổ Loa, các nhà sử học cho rằng, Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, theo giả thuyết trên là khoảng gần 30 năm (khoảng 208 – 179 TCN). Do đó, thời gian tồn tại của nước Âu Lạc không tách ra thành một thời kỳ lịch sử riêng, mà được coi như một giai đoạn phát triển tiếp tục của nước Văn Lang và cũng nằm trong một thời đại chung: thời đại dựng nước đời Hùng Vương và An Dương Vương.

Kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang. Văn hóa Đông Sơn vẫn là cơ sở văn hóa chung của nước Văn Lang và nước Âu Lạc, nhưng có những bước phát triển mới về một số mặt. Đặc biệt do yêu cầu bức thiết của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, trong thời Âu Lạc, kỹ thuật quân sự có những tiến bộ vượt bậc.

Một cải tiến vũ khí quan trọng của thời kỳ này là việc sáng chế ra loại nỏ bắn một lần nhiều phát tên, thường gọi là nỏ liễu hay loại nỏ liên châu. Loại vũ khí mới lợi hại đó đã được thần thánh hóa thành “nỏ thần” (thần nỗ) trong truyền thuyết dân gian. Năm 1959, khảo cổ học đã phát hiện được ở Cầu Vực, phía nam thành Cổ Loa, cách thành ngoại vài trăm mét, một kho mũi tên đồng gốm hàng vạn chiếc. Đó là một loại mũi tên gồm đầu tên có ba cạnh và chuôi dài cắm vào tên. Rải rác nhiều nơi trong và ngoài thành cũng tìm thấy mũi tên có kiểu dáng khác nhau.

Một công trình lao động lớn, một kiến trúc quân sự nổi tiếng thể hiện tập trung nhiều chỉ tiêu phát triển của nước Âu Lạc là thành Cổ Loa.

Sau khi thành lập nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn Cổ Loa làm kinh đô và xây dựng ở đó một tòa thành lớn. Đấy là thành Cổ Loa, kinh thành của nước Âu Lạc đời An Dương Vương.

Cổ Loa nằm ở cùng đồng bằng giáp trung du của lưu vực sông Hồng, trên bờ bắc Hoàng Giang. Ngày nay, Hoàng Giang chỉ là một đoạn sông đã bị bồi lấp và đã được cải tạo thành một kênh thủy nông. Nhưng theo các tài liệu địa lý học lịch sử xưa kia, Hoàng Giang là một con sông lớn, nối liền sông Hồng với sông Cầu ở Quả Cảm – Thổ Hà. Trên bản đồ và thực địa, dấu vết của dòng sông cũ còn rõ nét với những đoạn gọi là sông Thiếp hay Ngũ Huyện Khê (sông chảy qua 5 huyện: Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du).

Từ Cổ Loa, theo Hoàng Giang có thể ngược lên sông Hồng, rồi theo sông Hồng, sông Đà, sông Lô có thể lên tận miền núi rừng phía Bắc và tây bắc hay theo Hồng, sông Đáy có thể xuôi xuống vùng đồng bằng và ra biển. Từ Cổ Loa, theo Hoàng Giang cũng có thể xuôi xuống sông Cầu để qua sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam lên miền núi rừng đông bắc hay theo Lục Đầu Giang xuống sông Thái Bình, sông Kinh Thày tỏa rộng khắp vùng đồng bằng ven biển.

Cổ Loa nằm giữa vùng đồng bằng, ở vị trí trung tâm của đất nước và đầu mối của các hệ thống giao thông đường thủy, dân cư đông đúc, kinh tế phát đạt. Việc dời đô về Cổ Loa, với vị trí địa lý, giao thông, kinh tế như vậy, chứng tỏ một yêu cầu phát triển mới của nước Âu Lạc. Thủ đô của nước Âu Lạc không thể ở vùng trung du như trước nữa, mà phải là một trung tâm về mọi mặt của đất nước.

Cổ Loa có tên nôm là chạ Chủ. Truyền thuyết dân gian cho biết, khi xây dựng đô thành mới, An Dương Vương đã dời dân chạ Chủ xuống vùng đất bãi cuối sông Hoàng, khai phá đất hoang lập nên những xóm làng mới. Đó là làng Quậy gồm Quậy Cả, Quậy Rào, Quây Con thuộc xã Liên Hà (Đông Anh, Hà Nội). Thành Cổ Loa được xây dựng trên một vùng đất đã được khai phá và có xóm làng cư trú từ lâu đời.

Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng, thành Cổ Loa được xây dựng đầu tiên với An Dương Vương và giữ vai trò kinh đô của nước Âu Lạc. Cũng không ai nghi ngờ rằng, sau thời An Dương Vương, thành Cổ Loa đã được nhiều chính quyền của những thời kỳ lich sử khác nhau sử dụng và tất nhiên có tu bổ, sửa sang hay xây đắp thêm.

Thành Cổ Loa là một chỉ tiêu phản ánh tập trung sự phát triển nhiều mặt của nước Âu Lạc đời An Dương Vương. Nó không những chứng tỏ tài năng lao động sáng tạo, những tiến bộ về kỹ thuật xây dựng, về kỹ thuật và nghệ thuật quân sự của người Việt cổ, mà còn biểu thị một bước phát triển mới của Nhà nước Âu Lạc, của quyền lực xã hội, của sự phân hóa xã hội.

1 tháng 4 2022

B

1 tháng 4 2022

B

14 tháng 11 2021

2229 năm 

18 tháng 11 2021

Câu hỏi : Nếu nói câu " Thục Phán lập ra nước Âu Lạc vào khoảng năm 208 TCN " thì cách ngày nay bao nhiêu năm ?

Trả lời : " Thục Phán lập ra nước Âu Lạc vào khoảng năm 208 TCN " thì cách ngày nay 2229 năm

Cách tính : Lấy thời gian TCN cộng với thời gian SCN

Thay số :                          208     +                        2021 = 2229

23 tháng 11 2021

a/.cách tính thời gian dương lịch là sự chuyển động của trái đất với mặt trời,trái đất quay 1 vòng quanh mặt trời thì tính là 1 năm.   Âm lịch là tính sự chuyển động của mặt trăng với trái đất,mặt trăng quay 1 vòng quanh trái đất tính là 1  tháng.Công lịch là tính theo trái đất quay quanh mặt trời là 1 vòng trái đất quay quanh mặt trời tính ra 1 năm và 1 năm có 365 ngày, một năm gồm 12 tháng mỗi tháng có 30 31 hoặc 29 ngày, 1 ngày có 24h.

23 tháng 11 2021

cánh năm  2021 khoảng 2229 năm

6 tháng 3 2022

D

27 tháng 2 2022

Âu Lạc

27 tháng 2 2022

âu lạc

12 tháng 12 2016

Thời đồng thau, Thủy tổ nước VN có 15 bộ lạc, có bộ lạc sống chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Bắc Việt Bắc, Do nhu cầu trị thủy và giao thương kinh tế, văn hóa nên có xu hướng hợp nhất lại, Trong các bộ lạc đó, Bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả, thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất các Bộ lạc Lạc Việt lại, thành lập nên nhà nước Văn lang, xưng là Hùng Vương, các con cháu của ông sau này đều nối truyền danh hiệu đó.
Thời gian tồn tại của Nhà nước Văn lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên
Sau này năm 211 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng cho Quân đi xâm lược, thủ lĩnh lúc này của liên minh các bộ lạc là Thục Phán được cử đi đánh giặcn năm 208 TCN quân Tần rút lui, với uy thế của mình, Thcj Phán xưng Vương gọi là An Dương vương, liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại thành nước Âu Lạc (Tên ghép của Lạc Việt và Âu Việt). Sau này năm 179 sau CN Triệu Đà là vua của Nam Việt đánh Thục Phán, Âu lạc bị đô hộ suốt 7 thế kỷ sau đó, bị chia ra thành nhiều Châu, Quận nhưng cái tên Âu Lạc Vẫn còn mãi...
Ăn nói cẩn thận con người có gốc rễ, được kiểm chứng bởi các nhà sử học trong và ngoài nước với các chứng tích di chỉ, thư tịch cổ của VN và các đời vua bên TQ, Thanh Sử, Hán sử có ghi... Bạn không nên nói là chưa đẻ nên không biết vì như thế là phủ nhận hoàn toàn, điều tối kỵ của con người- nhất là nguồn gốc của mình. Nếu bạn nói thế, có người nói thủy tổ bạn là con bò vì lúc đó bạn chưa đẻ nên không biết bạn có chịu không? do vậy cần cẩn trọng. Quá lời xin đừng buồn.

11 tháng 12 2016

Thời đồng thau, Thủy tổ nước VN có 15 bộ lạc, có bộ lạc sống chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Bắc Việt Bắc, Do nhu cầu trị thủy và giao thương kinh tế, văn hóa nên có xu hướng hợp nhất lại, Trong các bộ lạc đó, Bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả, thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất các Bộ lạc Lạc Việt lại, thành lập nên nhà nước Văn lang, xưng là Hùng Vương, các con cháu của ông sau này đều nối truyền danh hiệu đó.
Thời gian tồn tại của Nhà nước Văn lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên
Sau này năm 211 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng cho Quân đi xâm lược, thủ lĩnh lúc này của liên minh các bộ lạc là Thục Phán được cử đi đánh giặcn năm 208 TCN quân Tần rút lui, với uy thế của mình, Thcj Phán xưng Vương gọi là An Dương vương, liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại thành nước Âu Lạc (Tên ghép của Lạc Việt và Âu Việt). Sau này năm 179 sau CN Triệu Đà là vua của Nam Việt đánh Thục Phán, Âu lạc bị đô hộ suốt 7 thế kỷ sau đó, bị chia ra thành nhiều Châu, Quận nhưng cái tên Âu Lạc Vẫn còn mãi...

11 tháng 12 2016

Công lao của vua hùng:
Mẹ tiên Âu bố rồng Lạc - khởi nguyên thần thoại dân tộc Việt Nam, nhưng Âu Việt miền đồi gò thung lũng kết hợp với Lạc Việt miền sông núi biển cả để trở thành Âu - Lạc và miền Đất Tổ, xuất phát điểm địa lý của sự hình thành Nhà nước của người Việt cổ là một hiện thực. Chuyện Hùng Vương kén rể, chuyện tình của Sơn Tinh tức thần núi Tản, của Thủy Tinh thần nước với Mỵ Nương công chúa là huyền thoại ... cũng là huyền thoại khi tổ tiên ta nhìn những ngọn đồi trung du thành 99 con voi về chầu Đất Tổ ...
Nhưng sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng, sự nghiệp chống ngoại xâm giữ nước của người Việt cổ lại là sự thật lịch sử rõ ràng. Hiện thực đó hiển hiện qua hàng trăm di chỉ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt sớm được phát hiện và khai quật bao năm qua trên miền Đất Tổ. Và, những chiếc cuốc đá, rìu sắt, lưỡi cày, liềm hái đồng thau ... cùng bao vòng tay hạt chuỗi, khuyên tai đá-ngọc đứng xếp hàng trong nhà Bảo tàng Đất Tổ-Vua Hùng là những vật minh chứng cho cả một chặng đường dài lịch sử vài thiên niên kỷ trước công nguyên. Công việc của các nhà khoa học là "giải ảo hiện thực" - như cách nói của Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng - để phục chế lại sự thực lịch sử khách quan thời đại các Vua Hùng. Còn dân gian xưa thì nội tâm hoá mọi nghiệm sinh lịch sử để qua cái nhìn huyền thoại-huyền tích mà xuất lộ những câu chuyện truyền khẩu để đời.
Trong các truyền thuyết của người Việt có rất nhiều truyền thuyết liên quan đến thời đại của các Vua Hùng được truyền lại trong dân gian đến nay; đó là chuyện Vua Hùng kén rể, chuyện nàng công chúa Tiên Dung với chàng trai nghèo Chử Đồng Tử, là sự tích bánh chưng, bánh dày gắn với tích Hùng Vương chọn người truyền ngôi báu...Nhưng cùng với những truyền thuyết đó, là những trang sử được ghi lại: "Thời Trang Vương nhà Chu năm 692-682 TCN, ở bộ Gia Ninh có dị nhân dùng yêu thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, truyền 18 đời đều gọi là Hùng Vương." (Đại Việt sử lược). Trong Đại Nam nhất thống chí - Quốc sử quán triều Nguyễn cũng thấy chép rằng, Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, nay là huyện Bạch Hạc.
Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt coi trọng việc đầu tư cho các công trình nghiên cứu khảo cổ học để tìm ra những bằng chứng đích thực của buổi đầu dựng nước. Nhiều công trình đã chứng minh được rằng, từ ngàn năm trước, dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng và một số địa danh phụ cận là đất phát tích của người Việt Nam. Nơi đây đã ra đời một kinh đô đầu tiên, Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và Đền Hùng là nơi thờ tự 18 đời Vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mỗi địa danh trên đất Phú Thọ, đặc biệt là dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng đều có tên gọi gắn liền với một tích cổ thời Hùng Vương. Tích Vua Hùng chọn đất đóng đô ở Bạch Hạc, nơi hội tụ của ba con sông cửa ngõ giao lưu đường thuỷ. Mùa xuân hằng năm, trên bến sông này lại có hội bơi chải diễn lại tích "Thổ lệnh Thạch Khanh" từ thời nhà Hùng. Tích Vua Hùng dạy dân cấy lúa được thể hiện lại ở Minh Nông. Đất Dữu Lâu có vườn trầu của nhà Vua; đất Hương Trầm gắn liền với tích về một cánh đồng, nơi hoàng tử Lang Liêu trông lúa thơm làm bánh chưng, bánh dầy...
Có thể thấy, khi đặt các tích cổ và các công trình khảo cổ khoa học về Đền Hùng và những vùng đất lân cận bên cạnh nhau, thêm một lần chúng ta có cơ sở để công nhận Đền Hùng là Đất tổ của người Việt. Và cũng có thể nhận định, Đền Hùng là một khu di tích chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về cội nguồn dân tộc Việt ta. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bền vững và sống mãi trong tâm thức của 54 đồng bào các dân tộc Việt Nam, truyền từ đời này sang đời khác, qua các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê... đã làm nên sức mạnh phi thường của cả dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Thời nhà Lê đã phong cho làng Cổ Tích, xã Hy Cương làm "con trưởng tạo lệ", cho miễn các thứ thuế, chỉ đầu tư trông nom thờ cúng Hùng Vương vào ngày 10-3 âm lịch hằng năm. Chính cái hay, cái đẹp khi hành hương về Đất Tổ ngày 10-3 lịch trăng, khi trở về "cội nguồn dân tộc" là như vậy. Ta đi thăm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ … ta ngắm nhìn vùng ngã ba sông hoành tráng, những núi đồi như bát úp ở trung du...Ta tìm cái thực mà cứ ngỡ như trong mơ. Ta đặt chân trên tảng nền Đất Tổ nhưng tâm ta lại được hoà trong khói hương huyền thoại. Và cũng vẫn còn đó âm vang lời Bác Hồ kính yêu dặn đoàn quân chiến thắng về tiếp quản Thủ đô tại đền Hùng ngày 19-9-1954: "Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".