K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 11 2018

Đáp án A

24 tháng 5 2019

ĐÁP ÁN A

2 tháng 9 2017

ĐÁP ÁN B

8 tháng 4 2017

1) Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trải qua 9 năm (1945-1954). Trong 9 năm chống Pháp, chúng ta đã có nhiều thắng lợi trên mặt trận quân sự như: Chiến thắng Việt Bắc thu-đông (1947), chiến thắng Biên giới thu-đông (1950), các chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951 (chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung), chiến dịch Hòa Bình đông-xuân 1951-1952, những thắng lợi trong cuộc Tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954,….và có cả những chiến dịch phối hợp với quân dân Lào (chiến dịch Thượng Lào xuân hè 1953, Trung Lào tháng 12-1953, Thượng Lào tháng 1-1954). Mỗi chiến dịch ta giành thắng lợi nêu trên đều có ý nghĩa quan trọng, làm cho quân độ Pháp lâm vào tình trạng khó khăn, buộc phải dựa vào sự viện trợ của Mĩ (từ năm 1950). Song thắng lợi của các chiến dịch này chưa đủ để buộc Pháp phải kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược.

2) Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm thất bại hoàn toàn kế hoạch Nava của Pháp có Mĩ giúp sức. Kế hoạch Nava được coi là quân bài cuối cùng của Pháp và Mĩ trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Cả Pháp và Mĩ đều hi vọng sẽ kết thúc chiến tranh trong danh dự trong vòng 18 tháng (kế hoạch này được đưa ra vào tháng 5-1953). Nhưng tất cả ý đồ của Pháp và Mĩ đều bị chúng ta làm phá sản, trong đó nếu các cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 bước đầu ta làm phá sản kế hoạch Nava, thì chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm thất bại hoàn toàn kế hoạch ấy. Như vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi trên bàn đàm phán ở Hội nghị Giơnevơ.

20 tháng 8 2018

Đáp án A
Mĩ xâm lược Việt Nam với âm mưu: chia cắt hai miền Nam - Bắc, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Chính vì thế, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam thắng lợi đã giáng đòn mạnh vào âm mưu nô dịch của chủ nghĩa thực dân (Mĩ), cổ vũ và tác động đến phong trào giải phóng dân tộc của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng thời, nội bộ nước Mĩ trong quá trình diễn ra chiến tranh Việt Nam đã có sự chia rẽ sâu sắc do các phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam.  => Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Việt Nam thắng lợi là sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc

3 tháng 11 2018

Đáp án: A

2 tháng 12 2018

Đáp án B

- Đáp án A loại vì cách mạng tháng Tám không có đấu tranh ngoại giao.

- Đáp án B lựa chọn vì trong cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đều có lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang.

- Đáp án C loại vì chiến trường chính và vùng sau lưng địch chỉ có trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ còn cách mạng tháng Tám không có nội dung này.

- Đáp án D loại vì lực lượng vũ trang ba thứ quân chỉ có trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ còn cách mạng tháng Tám không có lực lượng vũ trang 3 thứ quân.

8 tháng 4 2017

-Giai đoạn 1954-1960:

-Trong hai năm 1955-1956 ta lấy từ tay địa chủ hơn 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 2 triệu nông cụ chia cho nông dân nghèo thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà Đảng đã đề ra từ năm 1930.

-Những năm 1954-1957, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch 3 năm, khôi phục kinh tế thắng lợi. Điều này làm cho đời sống nhân dân miền Bắc ổn định tạo điều kiện để miền Bắc bước vào thời kì mới.

-Từ năm 1958-1960 Đảng đề ra chủ trương 3 năm cải tạo XHCN và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trong đó cải tạo XHCN là trọng tâm mà khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.

-Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn của miền Bắc sau 6 năm (1954-1960) đã được phản ánh tập trung trong bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố ngày 1-1-1960.

-Giai đoạn 1961-1965:

+Đảng tiến hành Đại hội Đảng lần thứ III, hoạch định đường lối cho cách mạng mỗi miền và xu thế phát triển của thời đại.

+Với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), ta bước đầu xây dựng nền móng của CNXH.

-Trên mặt trận quân sự : đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ nhất (5-8-1964 đến 1-11-1968)

-Trên mặt trận sản xuất: Đảng chủ trương tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH trong bất kì hoàn cảnh nào miền Bắc vẫn đẩy mạnh sản xuất và chuyển hướng kinh tế lần thứ nhất từ thời bình sang thời chiến.

-Về chi viện:

Trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn là hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến miền Nam về sức người và sức của. Với tinh thần mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt sẵn sang đảm bảo “thóc không thiều một cân, quân không thiếu một người”.

-Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ dọc theo dãy Trường Sơn và trên biển dọc theo bờ biển Việt Nam. Bắt đầu khai thông từ ngày 19-5-1959 kéo dài hàng nghìn km nối liền hậu phương với tiền tuyến.

-Trong 4 năm 1965-1968 miền Bắc đã đưa hơn 30 vạn cán bộ-bộ đội dọc theo dãy Trường Sơn vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

-Cùng trong thời gian này miền Bắc gửi vào miền Nam hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm góp phần không nhỏ vào thắng lợi của miền Nam trong chiến đấu chống chiến tranh cục bộ của Mĩ.

-Giai đoạn 1969-1973

Trên mặt trận kinh tế

Từ năm 1969 đến tháng 3 năm 1972 miền Bắc chuyển hướng kinh tế lần thứ hai từ thời chiến sang thời bình khôi phục kinh tế-văn hóa-xã hội mà trước hết là các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.

Trên mặt trận chiến đấu: Chống chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ hai, từ tháng 4-1972 đến 12-1972.

-Chỉ định trong 7 tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại lần này (từ tháng 4-1972 đến 12-1972), quân dân miền Bắc đã bắn rơi 651 máy bay địch, bắt sống hàng trăm giặc lái.

-Nhưng sau khi trúng cử tổng thống nhiệm kì hai, Ních xơn đã quyết định mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội-Hải Phòng trong 12 ngày đêm (từ ngày 18 đến ngày 19-12-1972) dội xuống miền Bắc 10 vạn tấn bom. Riêng Hà Nội là 4 vạn tấn bom.

-Nhờ chuẩn bị tốt về tư tưởng, tổ chức, quân dân miền Bắc đã giáng trả cho địch những đòn đích đáng, làm nên trận Điện Biên Phủ trên không. Trong 12 ngày đêm ta đã bắn rơi 81 máy bay địch trong đó có 34 máy bay B52, máy bay F111.

-Ngày 30-12-1972, Chính phủ Mĩ phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, đến ngày 15-1-1973 thì ngừng hoàn toàn các cuộc bắn phá miền Bắc để tiến tới kí với Chính phủ ta Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 rút hết quân khỏi miền Nam.

-Về chi viện

-Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mĩ không ngăn cản được sự chi viện ngày càng lớn của miền Bắc đối với miền Nam.

Hàng chục vạn thanh niên được gọi là nhập ngũ. Trong đó có 60% lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam-Lào-Campuchia. Cũng trong thời gian này khối lượng vật chất đưa vào chiến trường tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước đó.

-Trong năm 1972 miền Bắc động viên trên 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang trên cả 3 chiến trường ở Đông Dương.

-Khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong năm 1972 vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971.

-Bản thân cơ quan tình báo Mĩ cũng phải thú nhận rằng “mặc dù ném bom rất ác liệt nhưng vẫn không làm giảm đi một cách ý nghĩa việc đưa người và trang thiết bị từ miền Bắc vào miền Nam.