K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 6 2017

Lời giải:

Nghệ thuật quân sự được được quân dân nhà Trần sử dụng trong cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên để lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều là:

- Tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc

- Kế thanh dã- vườn không nhà trống

- Chớp thời cơ để tổ chức các cuộc tiến công chiến lược đỉnh cao là trận Bạch Đằng năm 1288 với nghệ thuật thủy chiến

=> Đáp án B: "tiên phát chế nhân" là nghệ thuật điển hình được sử dụng trong cuộc kháng chiến chống Tống 1075-1077

Đáp án cần chọn là: B

Câu 1: Vì sao xuất hiền thành thị trung đại? Nếu kinh tế trong các thành thị có gì khác so với nền kinh tế lãnh địa? Câu 2: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở châu Âu được biểu hiện như thế nào? Câu 3: Gia cấp tu sản và vô sản ở châu âu được hình thành như thế nào? Câu 4: Em hãy cho biết cách đánh giặc của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược...
Đọc tiếp

Câu 1: Vì sao xuất hiền thành thị trung đại? Nếu kinh tế trong các thành thị có gì khác so với nền kinh tế lãnh địa?

Câu 2: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở châu Âu được biểu hiện như thế nào?

Câu 3: Gia cấp tu sản và vô sản ở châu âu được hình thành như thế nào?

Câu 4: Em hãy cho biết cách đánh giặc của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên

Câu 5: Nhà Trần đã làm gì để phục hồi và phát triển kinh tế sau những năm suy thoái cuối thời Lý

Câu 6: Em hãy mô tả bộ máy chính quyền trung ương và địa phương thời Tiền-Lê

Câu 7: Trình bày ý nghĩa lịch sử 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên (thế kỉ XIII )

Câu 8: Văn hoá thời Lý có gì đổi mới so với thời Đinh-Tiền Lê? Vì sao có sự đổi mới đó?

Câu 9: Nêu ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077 )

Câu 10: Điều kiện nào là quan trọng nhất dẫn đến sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu

Câu 11: Em hãy trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sủ của 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên

Câu 12: Thủ công nghiệp và thương nghiệp thời Trần sau chiến tranh có gì mới

Câu 13: Tại sao văn học, khoa học, giáo dục thời Trần phát triển

Câu 14: Sự bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân, nô tì ở nữa sau thế kỉ XIV nói lên điều gì? Tại sao?

Câu 15: Trình bày tóm tắt cuộc cải cách của Hồ Quý Ly, những mặt tiến bộ và hạn chế.

AI GIÚP MÌNH VỚI, LÀM ƠN!!!!!!!!!

4
9 tháng 11 2017

sao nhìu thế bn???

11 tháng 11 2017

đề cương mà

12 tháng 12 2016

Thời Lý chống quân Tống từ 10/1075 - 3/1077

=> Thắng lợi

Thời Trần chống Mông - Nguyên

+ Lần 1 ; 1/1258 - 29/1/1258

+ Lần 2 ; 1/1285 - 6/1285

+ Lần 3 12/1287 - 4/1288

Đường lối chống giặc của thời Lý

- Chử động đánh giắc , buộc chúng pải đánh theo ta

- Chủ động xây dựng pòng tuyết Như Nguyệt để đánh giặc

Đường lối kháng chiến của thời Trần

- Theo chủ trương '' vườn không nhà trống ''

9 tháng 1 2018

Chủ động giảng hòa khi dành được chiến thắng. Trong các cuộc kang chiến về sau ông cha ta đã chủ động giảng hòa để giữ hòa bình lâu dài, không tiếp tục chiến tranh mà quay về nước để đảm bảo sự yên bình cho nhân dân, tránh sự hằn thù giữa hai nước để giữ hòa bình thời gian dài.

Mk không chắc đúng nhưng bạn cứ tham khảo nhé! thanghoathanghoathanghoa

3 tháng 1 2017

không nên tiếp tục chiến tranh mà nên quay về nước để đảm bảo sự yên bình cho nhân dân, tránh sự thù hận và bớt thương vong.

MÌNH CHỈ GIÚP ĐƯỢC NHIÊU ĐÓ THÔI, CÒN LẠI BẠN TỰ LÀM NHÉ!hihihehe

30 tháng 10 2016

Câu 3: Trả lời:

1. Nguyên nhân thắng lợi
- Tất cả các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vệ quê hương đất nước tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó quý tộc, vương hầu là hạt nhân.
Sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến. Đặc biệt, nhà Trần rất chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó giữa triều đình và nhân dân.
- Tinh thần hy sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân mà nòng cốt là quân đội.
- Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của vương triều Trần đặc biệt là của vua Trần Nhân Tông, các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi.
2. Ý nghĩa lịch sử
Nhắc tại cách khái quát về quân Mông Nguyên
“- Quân Mông Cổ lớn lên trên yên ngựa, tự luyện tập chiến đấu, từ mùa xuân đến mùa đông, ngày ngày săn bắn, đó là cách sống của họ
- Về đánh trận , họ lợi ở dã chiến, không thấy lợi thì không tiến quân
Trăm quân kị quay vòng, có thể bọc được vạn người. Nghìn quân kị tản ra có thể dài tới trăm dặm , kẻ địch chia ra thì họ chia ra, kẻ địch hợp lại thì họ hợp lại nên kị đội là thế mạnh của họ
Đội quân lúc ẩn lúc hiện, đến thì như trời rơi xuống, đi thì nhanh như chớp giật. Họ mà thắng thì đuổi theo địch chém giết không để trốn thoát, họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không kịp” theo lời sử học nhà Tống
Ý nghĩa lịch sử
- Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Mông - Nguyên,bảo vệ độc lập,toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của dân tộc.
- Thể hiện sức mạnh của dân tộc, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược( góp phần nâng cao lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho nhân dân … )
- Góp phần xây dựng truyền thống dân tộc, xây dựng học thuyết quân sự, để lại nhiều bài học cho đời sau trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lược.

- Bài học kinh nghiệm: Dùng mưu trí đánh giặc, lấy đoàn kết làm sức mạnh.

 
 
30 tháng 10 2016

1. - Cơ sở kinh tế chủ yếu của chế độ phong kiến là sản xuất nông nghiệp, kết hợp với chăn nuôi và một số nghề thủ công. Sản xuất nông nghiệp đóng kín ờ các công xã nông thôn (phương Đông) hay các lãnh địa (phương Tây).
- Ruộng đất nằm trong tay lãnh chúa hay địa chủ, giao cho nông dân hay nông nô cày cấy rồi thu tô, thuế.
- Xã hội gồm hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân lĩnh canh (phương Đông), lãnh chúa phong kiến và nông nô (phương Tây). Địa chủ, lãnh chúa bóc lột nông dân và nông nô bằng địa tô.
Riêng ở xã hội phong kiến phương Tây, từ thế kỉ XI, công thương nghiệp phát triển.
- Quan hệ giữa các giai cấp : giai cấp thống trị (địa chủ, lãnh chúa) bóc lột giai cấp bị trị (nông dân lĩnh canh, nông nô) chủ yếu bằng địa tô.

 

- Chế độ quân chủ là thể chế nhà nước do vua đứng đầu.
- Chế độ quân chủ chuyên chế là chế độ mà quyền lực tập trung tuyệt đối, tối cao, vô hạn trong tay một người (vua - hoàng đế - Thiên tử...), mọi người phải phục tùng tuyệt đối.

 

25 tháng 12 2016

2. Phương đông
- Thời gian hình thành sớm, kết thúc muộn
- Chế độ quân chủ tập quyền, vua có quyền lực tối cao
- Nền kinh tế dựa trên Nông nghiệp là chính, kết hợp TCN
- Xã hội phân chia 2 giai cấp chính: Địa chủ và nông dân
Phương tây
- RA đời muộn, kết thúc sớm
- Chế độ dân chủ, quyền lực do 1 hay nhiều nhóm quyết định
- Kinh tế dựa trên thương nghiệp, buôn bán là chính

25 tháng 12 2016

4. kháng chiến chống quân Nguyên mông lần thứ 3

Cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm tiêu biểu để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất là Khởi nghĩa Lam Sơn :

* Diễn biến :

- Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi.

- Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc.

- Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
- Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân.

- Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. - Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
- Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 - 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.

* Nguyên nhân thắng lợi:
+ Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, quyết tâm giành lại độc lập tự do cho đất nước.
+ Tất cả các tầng lớp nhân dân không phân biệt già trẻ, nam nữ, các thành phần dân tộc đều đoàn kết đánh giặc, hăng hái tham gia kháng chiến, gia nhập lực lượng vũ trang, tự vũ trang đánh giặc, ủng hộ, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân.
+ Nhờ đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của bộ tham mưu nghĩa quân, đứng đầu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi.

* Ý nghĩa lịch sử :

+ Cuộc khởi nghĩa Lam Son thắng lợi đã kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của nhà Minh (Trung Quốc).

+ Mở ra một thời kì phát triển mới của dân tộc - thời Lê sơ.
Chúc ban học tốt okthanghoa

31 tháng 1 2017

Sao nhiều bạn hỏi câu này quá vậy taohobatngo

"LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT VIỆT NAM"Đoàn Thị Điểm (段氏點, 1705-1749), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê Trung hưng. Bà là tác giả tập Truyền kỳ tân phả (chữ Hán), và tác giả của truyện thơ Chinh Phụ Ngâm (bản chữ Nôm – 412 câu thơ) được bà dịch từ nguyên bản Chinh Phụ Ngâm Khúc (viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn). Bà còn viết tập Nữ trung tùng...
Đọc tiếp

"LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT VIỆT NAM"

Đoàn Thị Điểm (段氏點, 1705-1749), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê Trung hưng. Bà là tác giả tập Truyền kỳ tân phả (chữ Hán), và tác giả của truyện thơ Chinh Phụ Ngâm (bản chữ Nôm – 412 câu thơ) được bà dịch từ nguyên bản Chinh Phụ Ngâm Khúc (viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn). Bà còn viết tập Nữ trung tùng phận gồm 1401 câu thơ và bài Bộ bộ thiềm-Thu từ– 步步蟾-秋詞 (tức Bộ bộ thiềm- Bài hát mùa thu). Ngoài ra còn có một số bài thơ văn khác của bà (gồm chữ Hán, chữ Nôm) được chép trong tập Hồng Hà phu nhân di văn của tiến sĩ Nguyễn Kiều mới được phát hiện gần đây.

Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Xuân Quỳnh.

Trong tư liệu của Ths.Nguyễn Hồng Chiến (là di duệ của tiến sĩ Nguyễn Kiều), Hồng Hà Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm có biệt hiệu Ban Tang, quê làng Hiến Phạm, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà vốn là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi, mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ).

Ông bà Nghi còn sinh một trai là Đoàn Doãn Luân (1703), tức là anh trai và hơn Đoàn Thị Điểm 2 tuổi. Từ nhỏ, anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái lĩnh bá và được dạy dỗ chu đáo, thông Tứ thư, Ngũ kinh… Năm 6 tuổi, Đoàn Thị Điểm nổi tiếng gần xa về tài học giỏi, thông minh.

Năm bà 16 tuổi, quan Thượng thư Lê Anh Tuấn mến mộ muốn xin làm con nuôi, để tiến cử vào cung chúa Trịnh, nhưng bà nhất định từ chối. Về sau, cha mất, gia đình phải chuyển về quê nhà, được ít lâu thì dời về làng Võ Ngai (Vô Ngại), huyện Đường Hào (nay là Mỹ Hào, Hưng Yên), tại đây Đoàn Thị Điểm cùng anh trai hành nghề dạy học.

Anh trai mất sớm, chị dâu lại tàn tật, thời gian này, bà kiêm luôn nghề bốc thuốc, gần như một tay nuôi sống cả gia đình – gồm 2 cháu nhỏ, mẹ và chị dâu. Bà được nhiều người đến cầu hôn nhưng đều từ chối.

Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh, tại Vô Ngại, cuộc sống gia đình bà cũng không ở được. Khoảng  giữa thế kỷ XVIII, những cuộc nổi dậy của nông dân xảy ra khiến vùng Hải Đông không còn cảnh yên bình, nhiều làng xóm bị binh lửa tàn phá. Đoàn Thị Điểm lại đưa cả gia đình tới nhà một người học trò tại xã Chương Dương, huyện Thược Phúc (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) để lánh nạn và sinh sống. Theo Hoàng Xuân Hãn, lúc này bà mới chính thức mở trường dạy học.

Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh cho rằng, Đoàn Thị Điểm không những nổi tiếng về tài văn thơ, mà còn giỏi đối đáp. Xung quanh bà có nhiều giai thoại khẳng định tài năng áp đảo các bậc anh tuấn trong giới nho sinh kẻ sĩ. Cũng có nhiều câu đối được ghi là của bà trong các cuộc đối đáp với Trạng Quỳnh, sứ Tàu, Nhữ Đình Toản… Những chuyện ấy dù có bao nhiêu phần trăm sự thật thì cũng chứng tỏ lòng ngưỡng mộ của thế nhân đối với bà.

Đoàn Thị Điểm được Nguyễn Thị Băng Thanh đánh giá là một người con gái có bản lĩnh, một “gia trưởng” hoàn hảo, một nữ sĩ tài hoa, gồm đủ công dung ngôn hạnh nhưng cũng ngầm mang ít nhiều tính cách trượng phu có tầm cỡ về tư tưởng và dám “phá cách”. Thế nhưng, có thể chính vì sự hoàn hảo và xuất chúng đó mà đường tình duyên của nữ sĩ muộn màng.

Không phải bà thiếu các bậc tài danh ngấp nghé, nhưng dường như cảnh nhà cũng làm bà lỡ làng năm tháng. Vào tuổi thanh xuân, tuy ở trong cửa nhà quyền quý nhưng con đường gia thất lại chỉ có thể hướng tới cung nhà chúa, với cái cảnh “chiếc én ba nghìn” biết chen cành nào trên cây cù mộc? Bản lĩnh và tâm hồn nữ sĩ khiến bà không thể chấp nhận được sự sắp đặt ấy. Sau này, về gần kinh thành, với hoàn cảnh đơn hàn, bà càng được để ý. Nhưng nữ sĩ đã liệu lời từ chối tất cả và lẩn tránh, chấp nhận cuộc sống cô đơn để toàn tâm toàn ý phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy các cháu.

Đoán được quan lộ cho chồng, biết trước mình sắp mất

Nhiều tài liệu cho biết, mặc dù hết lần này đến lần khác “khất” không lấy chồng, nhưng rồi, Đoàn Thị Điểm đã “cập bến” bên tiến sĩ Nguyễn Kiều (1695 – 1752, sinh tại làng Phú Xá, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nộ). Theo tài liệu từ nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Kiều nổi tiếng đương thời là người giỏi văn thơ, năm 1715, đỗ tiến sĩ, sau đó được bổ dụng và đến năm 1740 được trao chức Quyền thự thiêm đô Ngự sử, một chức quan cần có bản lĩnh vững vàng và chính trực liêm khiết.

Trước khi được Đoàn Thị Điểm chấp nhận về làm vợ, Nguyễn Kiều đã có hai người vợ trước, nhưng đều mất sớm. Mối tình giữa Nguyễn Kiều và Đoàn Thị Điểm được coi là mối tình đẹp, nức tiếng Thăng Long xưa, năm đó, Đoàn Thị Điểm đã 37 tuổi. Nguyễn Kiều phải viết mấy bức thư với lời lẽ khẩn thiết, thê lương, rồi những lời khuyên bàn từ người thân, Đoàn Thị Điểm mới nhận lời. Nguyễn Kiều đã có thơ sau khi lấy được Đoàn Thị Điểm:

Nhân duyên gặp gỡ nhất trần gian

Cả cuộc đời ta được phúc ban

Ai bảo khát khao tiên nữ nữa

Nàng tiên đã xuống cõi nhân hoàn

Trong tư liệu từ di duệ Nguyễn Kiều, cho biết, cưới nhau được hơn một tháng, Nguyễn Kiều phải lên đường đi sứ phương Bắc, bà ở nhà coi sóc gia trang, xem con chồng như con đẻ, dạy dỗ thay làm cha, làm thầy. Nào ngờ cuộc đi sứ kéo dài đến ba năm. Nguyễn Kiều về đến Nam Ninh nhưng không qua biên giới được vì Lạng Sơn có loạn phải chờ đợi dẹp xong loạn mới về. Trong ba năm chờ chồng, Đoàn Thị Điểm sống chẳng khác nào người “chinh phụ”. Có lẽ chính trong thời gian này (1742 – 1745), bà đã dịch ra quốc âm tác phẩm Chinh phụ ngâm nổi tiếng của Đặng Trần Côn.

Năm 1746, ba năm chờ chồng dài đằng đẵng vừa kết thúc, bà lại phải khăn gói, từ biệt mẹ già cháu nhỏ để sang Nghệ An, nơi Nguyễn Kiều mới được bổ nhiệm.

Tư liệu từ di duệ Nguyễn Kiều cũng dẫn lại sách Đoàn Thị Thực lục còn chép lời đoán của bà về vận mệnh chồng, cũng đoán trước về việc sắp rời bỏ dương thế của mình: “Mùa hè năm Mậu Thìn (1748), một ngày kia xong việc công, ông vào tư thất, nói chuyện cùng bà và phê bình thơ, tra từ điển văn cũ định xếp thành thi văn tập của đôi vợ chồng. Thình lình, rèm tung lên, gió cuốn, bui bay. Bà ngồi lặng, ngẫm nghĩ, bấm đốt tay mà suy tính. Rồi bà bảo ông rằng: “Bắc khuyết vân bình chiêu thiếp thụy, Nam thù xuân vũ trước quân ân”, được dịch, “Cửa Bắc xe mây điềm thiếp rõ, Bờ Nam mưa ấm tỏ ơn vua”.

Ý Đoàn Thị Điểm muốn nói rằng luồng gió vừa qua là điềm bà sắp mất, và Nguyễn Kiều sắp được thăng chức và dời vào miền Nam. Nguyễn Kiều hỏi Đoàn Thị Điểm, hỏi đi hỏi lại nhưng bà không giảng thêm gì nữa. Chưa qua dăm ba ngày sau, thì quả nhiên ông được lệnh vào coi việc trấn an Nghệ An.

Ông bảo bà cùng đi. Bà lấy cớ bận việc nhà, xin ở lại, giả nói rằng xin sẽ đi sau. Nhưng ông cố nài, bất dắc dĩ, bà phải nghe. Hai người xuống thuyền trẩy vào xứ Nghệ. Chắc là đêm lạnh, bà ngủ quên không đắp chăn, nên cảm hàn. Bà liền đau, cố gắng gượng ăn uống, nhưng bệnh tình càng ngày càng nặng. Năm sáu ngày sau, thuyền đến trấn Nghệ An, ấy là vào ngày 4/8. Bệnh đã nguy kịch, chồng chạy khắp nơi, cầu cúng hết đền chùa, nhưng không công hiệu, đến ngày 9/11/1748 (âm lịch), Đoàn Thị Điểm qua đời, hưởng dương 44 tuổi.

Ths.Nguyễn Hồng Chiến đánh giá: Sự kính yêu của người đời sau với Đoàn Thị Điểm không chỉ vì văn tài thi văn điêu luyện, đặc sắc, còn vì bà có những phẩm chất cao quý, đức hạnh tốt đẹp xứng đáng là mẫu phụ nữ tiêu biểu của xã hội Việt Nam ở mọi thời đại.


THAM KHẢO

CHÚC MỘT NGÀY TỐT LÀNH

3

ui hay bạn tự nghĩ à 😁😁😁

MÌNH COP TRÊN MẠNG VÀI TỪ HÁN THÌ CŨNG KHÓ MÀ CỨ ĐỌC ĐI ;D