Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Biện pháp tu từ trong bài Hạt gạo làng ta là:
+ Điệp ngữ: “Hạt gạo làng ta”, “có”,…
+So sánh: “Nước như ai nấu”, “Vàng như lúa đồng”.
+ Hình ảnh đối lập ”Cua ngoi lên bờ” nhưng ”Mẹ em xuống cấy”
Biện pháp hoán dụ: giọt mồ hôi - chỉ sự vất vả của người lao động
Tác dụng: thể hiện sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó của người lao động để làm ra hạt gạo.
cho mình 1 like nhé
Trong bài thơ "Hạt gạo làng ta", các biện pháp tu từ đã được sử dụng để tái hiện hình ảnh đất nước Việt Nam đang chịu đựng nhiều khó khăn, khốn khó. Những biện pháp tiêu biểu như ẩn dụ, so sánh và hình ảnh đối lập đã giúp cho bài thơ trở nên sinh động và tràn đầy cảm xúc.
Qua những hình ảnh về cảnh đời khó khăn và những nơi đất khắc nghiệt, tác giả lồng ghép những từ ngữ đầy sức mạnh để nói lên tâm trạng kiên cường, bền chí và sức sống mãnh liệt của người nông dân Việt Nam. Như trong câu thơ "Hạt gạo làng ta / Nằm trong bàn tay mẹ tròn tròn", tác giả đã sử dụng hình ảnh đối lập để nói lên sự đặc biệt quí giá của hạt gạo và những giọt mồ hôi láng giềng của những bà mẹ Việt Nam. Điều này giúp cho người đọc có thể cảm nhận được sự tinh túy của sự nỗ lực và công sức để sản xuất ra những thực phẩm cần thiết cho đời sống.
Qua bài thơ, tác giả đã giúp cho độc giả cảm nhận được sự đậm chất dân tộc trong cuộc sống của người dân Việt Nam với lòng yêu nước và sự quyết tâm vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Các biện pháp tu từ đã giúp cho tác giả tái hiện lại những hình ảnh đẹp, những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam.
biện pháp tu từ là ẩn dụ :
Tác dụng :
Giúp cho bài văn thêm sinh động vả hay hơn. Ẩn dụ là biện pháp tu từ gọi tên sự vật, hiện tượng naỳ bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tạo sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
#thuyduongni
Chúc bạn học tốt
k hộ mk nha
Câu 1:
- Hạt gạo được làm từ thiên nhiên và con người: từ vị phù sa bồi đắp cho ruộng đồng màu mờ phì nhiêu, từ nước hồ sen tưới cho lúa tươi tốt, từ tình cảm và công sức của con người (người mẹ) một nắng hai sương đổ ra trên đồng ruộng.
- Giọt mồ hôi sa. - Những trưa tháng sáu. - Nước như ai nấu. - Chết cả cá cờ. - Cua ngoi lên bờ. - Mẹ em xuống cấy.
Câu 2: Câu thơ:
''Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà ''
=> Để làm ra hạt gạo thời đó, người nông dân đã rất vất vả
Câu 3:
Có sự góp sức của các bạn nhỏ
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vực mẻ miệng gầu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quanh trành quết đất
Bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa viết năm 1969 khi nhà thơ còn là một cậu bé 11 tuổi. Thế mà bài thơ lại có tầm suy nghĩ của người lớn: chín chắn, chững chạc làm sao.
Tứ thơ của bài thơ được phát triển bắt đầu từ ý khái quát: hạt gạo được kết tinh từ những hương vị ngọt ngào của quê hương. Đó là hương đồng gió nội, là bài ca lao động, là lời ru của mẹ, là vị phù sa màu mỡ của đất đai quê nhà. Nhưng hạt gạo cũng còn được làm ra từ trong khó khăn của thiên tai, từ trong khói lửa của chiến tranh. Hạt gạo không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá:
Hình ảnh đối lập trong đoạn thơ khiến e có suy nghĩ : Các em tham gia một cách tự giác, chăm chỉ. Sự chăm chỉ ấy được bài thơ thể qua các từ: sớm, trưa, chiều. Sự đối lập giữa sức vóc bé nhỏ với công việc người lớn mà các em tham gia được tác giả khắc hoạ một cách khá ngộ nghĩnh và xúc động.
tác giả muốn nâng giá trị của hạt gạo thành “Hạt vàng làng ta”. Hạt gạo quý như hạt vàng. Điệp khúc “Hạt gạo làng ta” ở mỗi khổ thơ thể hiện được sự trân trọng tự hào của nhà thơ đối với quê hương. Ta có thể nhận ra những “hạt vàng” lấp lánh trong bài thơ.
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bẩy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
Hạt gạo có được là bao công lao, bao vất vả của người nông dân. Thấm đượm những khó khăn vất vả của những ngày bão tháng bẩy, ngày mưa của tháng ba, những ngày nắng như thiêu như đốt của tháng sáu. Đó là bao vất vả khó nhọc, mồ hôi rơi xuống cánh đồng, cho dù Trần Đăng Khoa chỉ nhắc đến thời tiết trong đoạn này nhưng chúng ta có thể cảm nhận được nỗi cực nhọc của người nông dân một nắng hai sương, bán mặt cho đất bán lưng cho trời để làm ra hạt gạo. Những từ ngữ " mồ hôi sa", "chết cá cờ", "cua ngoi lên bờ", như hiện rõ lên mồn một trước mắt chúng ta cái nắng nóng khủng khiếp của ngày hè, cái nóng như thiêu rụi, cua cá chịu đựng không thể nổi, "cá" đến "chết" và "cua" phải ngoi lên bờ, vậy mà "mẹ em" có nề hà gì, "mẹ" vẫn chịu đựng cái nóng đó để xuống cấy. Những vất vả đó được tác giả nói đến như một lời nhắc nhở đến người đọc, những người hưởng thành quả " hạt gạo", trân trọng giá trị lao động. Biết được những vất vả, những khó nhọc đó, mỗi khi cầm bát cơm, hạt gạo như dẻo thơm muôn phần.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi viết bài này còn là một cậu bé, ta đọc đoạn thơ này và cả bài thơ, cái mà làm ta có thể nhớ mãi, là sự nhẹ nhàng, nhịp điệu vui tươi, cái nhìn của trẻ thơ mà sâu sắc, mặc dù là vất vả và khổ cực đó, nhưng chính cái nhịp điệu đó đã không làm cho bài thơ có cái bi quan hay buồn bã, mà như một khúc nhạc vui, khúc hát lạc quan của người ra đi gieo giống và gặt vụ mùa bội thu, một niềm tin vào ngày mai vào tương lai.
Gợi ý:
Hạt gạo của làng quê ta đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách to lớn của thiên nhiên: nào là bão tháng bảy (thường là bão to), nào là mưa tháng ba (thường là mưa lớn). Hạt gạo còn được làm ra từ những giọt mồ hôI của người mẹ hiền trên cánh đồng nắng lửa: “Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng sáu/ Nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy…”. Hình ảnh đối lập của hai dòng tơ cuối (“Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy”) gợi cho ta nghĩ đến sự vất vả, gian truân của người mẹ khó có gì so sánh nổi. Càng cảm nhận sâu sắc được nỗi vất vả của người mẹ để làm ra hạt gạo, ta càng thêm thương yêu mẹ biết bao nhiêu.
Tác giả lớn lên từ đồng quê Việt Nam nên ông đã hiểu được nỗi vất vả của người nông dân khi làm ra hạt gạo nuôi sống con người. Bởi lẽ, hạt gạo làm ra với bao mồ hôi, công sức với bao khó khăn do thiên nhiên gây ra. Đó là “cái bão tháng bảy, cái mưa tháng ba, cái nắng tháng sáu” khắc nghiệt như vậy. Đến nỗi, “cua ngoi lên bờ” để tránh nắng nóng, cá cờ cũng phải chết vì không chịu được cái nắng gay gắt. Ấy vậy mà “mẹ em xuống cấy”. Qua đây, em thấy được nỗi vất vả, khó nhọc của người nông dân khi làm ra hạt gạo. Vì vậy, em càng quý trọng công sức lao động của người nông dân.
nêu tác dụng của biện pháp tu từ" điệp ngữ, so sánh, hình ảnh đối lập" 7 - 10 câu của bài hạt gạo làng ta"hạt gạo làng ta ... mẹ em xuống cấy
Trong bài thơ "Hạt Gạo Làng Ta", các biện pháp tu từ như điệp ngữ, so sánh và hình ảnh đối lập được sử dụng mang lại tác dụng giúp biểu đạt chân thật và sâu sắc về cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam.
Điệp ngữ được sử dụng như một tình thương cao cả, bộc lộ tình cảm tôn kính đối với các bậc tiền bối nông dân đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới trong đất nước. So sánh giữa tinh hoa của những đứa trẻ ở thành phố và những đứa trẻ ở nông thôn như được minh chứng qua lời thơ "Trăng giăng giăng ngoài đồng / Mẹ em xuống cấy trông con một mình". Đặc biệt hình ảnh đối lập giữa nét đẹp thanh tao của những đứa trẻ ở thành phố với những đứa trẻ tay trần, chân đất ở nông thôn càng gợi lên sự hiểu biết đầy tâm hồn, chiến đấu và kiên cường của dân tộc Việt Nam trong quá khứ và hiện tại.
Từ các biện pháp tu từ đó, ta có thể thấy các tác dụng của chúng trong bài thơ, giúp bài thơ lồng ghép những yếu tố nghệ thuật một cách sâu sắc và tạo cảm hứng cho người đọc.Đồng thời, tác dụng của những biện pháp tu từ này còn giúp đi sâu vào chân thực, đầy cảm xúc của cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam và tôn vinh những nét đẹp tinh thần của người Việt Nam.