Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1. triều đường .
3. các triều đại : ngô , đinh , tiền lê , lý , trần
4.Thời ngô
Trung ương : vua đứng đầu nắm mọi quyền hành , giúp việc có quan văn quan võ
Địa phương : cử các tướng có công coi giữa các châu quan trọng
Thời lý
Trung ương : đứng đầu là vua , giúp việc có quan đại thần , quan văn ,quan võ
Địa phương : cả nước chia thành 24 lộ dưới lộ là phủ , dưới phủ là huyện , dưới huyện là hương xã
6.những nét độc đáo của cách đánh của lý thường kiệt
- Chủ trương "Tiên phát chế nhân" (đem quân sang đánh trước để kiềm chế quân giặc, giành thế chủ động; tấn công thành Ung Châu, Khâm Châu, bàn đạp xâm lược quan trọng của địch ). Đây không phải là hành động xâm lược của quân ta.
- Khi quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tràn vào nước ta, ngay lập tức cho xây dựng phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) làm trận địa mai phục, từ đó đã đánh tan được quân giặc, giành chiến thắng vang dội.
Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông:
- là một chính sách rất khôn khéo thời bình nhằm củng cố lực lượng quân đội lại kích thích tăng gia sản xuất.
- Giảm bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình.
- Là một phương pháp kết hợp hài hòa giữa quân sự và nông nghiệp nhờ đó có thể tập hợp lực lượng chuyển từ thời bình sang thời chiến ngay khi cần; nó phản ánh tư duy nông binh bất phân (không phân biệt quân đội và nông dân), đâu có dân là đó có quân, phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một nước đất không rộng, người không đông, cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản xuất, vừa đánh giặc.
* Đóng góp của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thế kỉ X:
- Đinh Bộ Lĩnh chấm dứt loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, xây dựng chính quyền độc lập tự chủ có quy củ và đầy đủ hơn nhà Ngô.
- Lê Hoàn có công đánh bại quân xâm lược Tống, bảo vệ độc lập tự chủ, xây dựng chính quyền quy củ hơn thời Đinh.
- Cả 2 ông đã tạo lập nền móng vững chắc cho đất nước phát triển và hưng thịnh ở những vương triều sau.
Chúc bạn học tốt!
- Đinh Bộ Lĩnh (924-979) Dẹp loạn 12 sứ quân. Thống nhất đất nước. Lên ngôi hoàng đế hiệu Đinh Tiên Hoàng. Ông là vị hoàng đế đầu tiên của Việt Nam.
- Lê Hoàn (941-1005) Đánh quân Tống. Lên ngôi xưng vương Lê Đại Hành. Ông là người có công mở mang nước Đại Cồ Việt lúc bấy giờ.
Những đóng góp của Quang Trung trong sự nghiệp xây dựng đất nước :
- Lật đổ các chính quyền phong kiến phản động Nguyễn- Trịnh - Lê.
- Xoá bỏ sự chia cắt đất nước, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia.
- Đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ được nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.
- Hạn chế sự giao lưu buôn bán với các nước bên ngoài, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Mục đích: Thoát khỏi thế bao vây, mở rộng địa bàn hoạt động trên phạm vi Nghệ an, Tân bình, Thuận hoá, sau đó dựa vào Nghệ an đánh Đông đô
Nhận xét kế hoạch đó: Chủ động, sáng tạo
Kết quả: Giải phóng được Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa. sau đó còn giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa
Ý nghĩa : Quân ta nhiều trận thắng lợi, địch cố thủ trong thành Đông Quan.
Việc thực hiện kế hoạch của Nguyễn Chích chuyển quân vào Nghệ An đã giúp cho nghĩa quân Lam Sơn thoát khỏi thế bị bao vây, mở rộng địa bàn hoạt động và sự kiểm soát của nghĩa quân trên phạm vi rộng lớn, tạo điều kiện để nghĩa quân tiếp tục tiến đánh vào phía Nam, giải phóng Tân Bình và Thuận Hóa. Thế và lực đã thay đổi, nghĩa quân giành được thế chủ động, lực lượng của nghĩa quân ngày càng đông và trưởng thành trong chiến đấu.
2. *giống: đều do người nước ngoài đến cai trị ấn độ
*khác:
_vương triều hồi giáo Đê-li áp đặt tôn giáo,phân biệt đối xử...nên thời gian tồn tại ngắn
_vương triều Mô-gôn thi hành nhiều chính sách tiến bộ ,đặc biệt là dưới thời hoàng đế A-cơ-ba nên kinh tế ấn độ phát triển mạnh mẽ.tuy nhiên, đến thời con cháu của A-cơ-ba là Sa-gia-han và....(mình quên tên rồi) thì không còn được lòng dân như trước.kết quả là đến thời của Ao-reng-dép,vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Ấn độ,thực dân Anh đã xâm chiếm toàn bộ nước ấn
3, Khi biết quân Tống có ý định tấn công Đại Việt Lý Thường Kiệt chù trương :Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc
Quân Việt bắt đầu tiến công vào đất Tống từ ngày 27 tháng 10 năm 1075. Thoạt tiên, quân Việt phá hủy một loạt các đồn trại biên giới, rồi lần lượt đổ bộ lên cảng và đánh chiếm các thành Khâm, Liêm. Sau đó đại quân tiếp tục tiến sâu vào đất địch.
Ngày 18 tháng 1 năm 1076 áp sát thành Ung. Đây là căn cứ quan trọng nhất trong những căn cứ địch dùng cho cuộc viễn chinh xâm lược vào Đại Việt. Sau 42 ngày vây hãm và tấn công quyết liệt, ta hạ được thành, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch.
Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công, đánh ngay vào đội quân mạnh nhất của địch, ngay trên hướng tiến công chủ yếu của chúng. Ông khéo kết hợp giữa tiến công và phòng ngự tích cực, giữa các cách đánh tập trung, đánh trận địa và đánh vận động. Ông vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao.
Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống (1075-1077) là một minh chứng hùng hồn về sự phát triển vượt bậc của dân tộc Việt sau một thế kỷ giành độc lập, quốc gia Đại Việt đã có đủ sức mạnh để chống lại một đế quốc lớn mạnh.
Chúc bạn học tốt
tham khảo
Tình hình kinh tế thời Lê Sơ có những biểu hiện dưới đây:
- Nông nghiệp: Được phục hồi và phát triển nhanh chóng nhờ những chính sách tích cực của nhà nước (Cử lính về quê làm ruộng thời bình, đặt một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ,...).
- Thủ công nghiệp: Phát triển với những nghề thủ công truyền thống (đan nón, dệt lụa,...), nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời, nhất là Thăng Long.
- Thương nghiệp: Chợ búa được khuyến khích mở để lưu thông hàng hóa trong nước và nước ngoài.
=> Nhờ những biện pháp tích cực, tiến bộ của nhà Lê mà nền kinh tế Đại Việt được phục hồi nhanh chóng và tiếp tục phát triển một cách thịnh vượng.
tham khảo
Tình hình kinh tế thời Lê Sơ có những biểu hiện dưới đây:
- Nông nghiệp: Được phục hồi và phát triển nhanh chóng nhờ những chính sách tích cực của nhà nước (Cử lính về quê làm ruộng thời bình, đặt một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ,...).
- Thủ công nghiệp: Phát triển với những nghề thủ công truyền thống (đan nón, dệt lụa,...), nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời, nhất là Thăng Long.
- Thương nghiệp: Chợ búa được khuyến khích mở để lưu thông hàng hóa trong nước và nước ngoài.
=> Nhờ những biện pháp tích cực, tiến bộ của nhà Lê mà nền kinh tế Đại Việt được phục hồi nhanh chóng và tiếp tục phát triển một cách thịnh vượng
Năm Nhâm Tuất 1802, Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi Hoàng đế, tự đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra một triều đại mới: Triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vua nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Tự Đức, kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng suy vong.
Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Tuy nhiên, trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn, hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại. Mâu thuẫn của xã hội sâu sắc làm bùng lên hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân, của các dân tộc ít người, và cuối cùng nước Việt Nam trở thành đối tượng của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Về tình hình chính trị: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đóng đô ở Phú Xuân (Huế), giữ nguyên các đơn vị hành chính cũ của hai miền, đặt quan chức giữ trấn. Năm Giáp Tý 1804, được sự đồng ý của vua nhà Thanh, vua Gia Long đổi tên nước là Việt Nam, đến năm Mậu Tuất 1838, vua Minh Mệnh lại đổi quốc hiệu là Đại Nam.
Chính quyền trung ương được tổ chức như các triều đại trước, đứng đầu là vua, nắm mọi quyền hành. Để tập trung hơn nữa mọi quyền hành về tay mình, các vua nhà Nguyễn đặt lệ “Tứ bất” (không đặt Tể tướng, không lấy Trạng nguyên, Đông cung không lập Thái tử và Chính cung không lập Hoàng hậu). nhưng đến thời vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là trường hợp đặc biệt, vua Bảo Đại đã phong cho vợ làm Nam Phương Hoàng hậu.
Dưới vua là 6 Bộ và 5 phủ đô đốc, ngoài ra có Đô sát viện(Ngự sử đài cũ); Hàn lâm viện, Tôn nhân phủ; Quốc tử Giám, Nội vụ phủ v.v… giúp vua còn có Văn thư phòng, sang thời Minh Mệnh đổi thành Nội các, chuyên lo việc công văn giấy tờ và đi theo vua. Vua Mimh Mệnh còn đặt thêm Viện Cơ Mật, gồm bốn viên đại thần chuyên bàn với vua các việc “quốc gia đại sự”.
Về luật pháp: Năm Tân Mùi 1811, vua Gia Long giao cho Tổng trấn Bắc thành là Nguyễn Văn Thành tổ chức biên soạn bộ luật mới. Đến năm Ất Hợi 1815, bộ luật nhà Nguyễn được biên soạn xong và ban hành với cái tên là Hoàng triều luật lệ, hay Luật Gia Long. Bộ luật sao chép hầu như nguyên vẹn bộ luật nhà Thanh đương thời, gồm tất cả 398 điều, chia thành 7 chương và 30 điều tạp tụng.
Luật Gia Long là một bộ luật hà khắc, phản ánh rõ nét chuyên chế của giai cấp thống trị, trên bước đường suy vong.Mọi tội phạm liên quan đến việc chống đối triều đình đều bị trừng trị tàn bạo.Tuy nhiên, Luật Gia Long cũng có mặt tích cực là trừng trị nặng tội tham nhũng và các tệ nạn xã hội.
Về Quân đội: Gồm ba bộ phận chính là Thân binh (hộ vệ vua); Cấm binh (bảo vệ thành); Tinh binh và Biền binh (quân địa phương, ngoài ra còn một số thuộc binh (lính lệ).
Về mặt đối ngoại: Nhà Nguyễn rất khâm phục nhà Thanh (Trung Quốc), sau khi đánh bại được nhà Tây Sơn, vua Gia Long đã cử ngay sứ thần sang nhà Thanh xin cầu phong. Vua nhà Thanh đã đồng ý cho nước ta được đặt quốc hiệu là Việt Nam, nhưng do phản ứng của nhân dân trong nước, nên đến năm 1813 vua Gia Long lại cho đổi lại quốc hiệu là Đại Việt, và đến năm 1838, vua Minh Mệnh bất bình đã khẳng định lại quốc hiệu là Đại Nam.
Sau khi xin cầu phong thì cứ 4 năm một lần, triều đình nhà Nguyễn cho sứ thần sang nộp hai lần cống phẩm. Mỗi lần sứ thần nhà Thanh sang phong vương, các vua nhà Nguyễn phải tổ chức đón tiếp rất tốn kém và phải ra tận Thăng Long để nhận. Tình hình đó kéo dài mãi đến năm Kỷ Dậu 1849. Mọi việc quan trọng trong quan hệ đối ngoại, các vua nhà Nguyễn hầu như đều cho sứ thần sang xin ý kiến của nhà Thanh.
Đối với các nước láng giêng như Ai Lao và Campuchia, nhà Nguyễn thường dùng vũ lực để khống chế, còn quan hệ đối với Xiêm (Thái Lan) cũng rất thất thường. Một vấn đề lớn trong quan hệ đối ngoại của nhà Nguyễn lúc bấy giờ là mối quan hệ với phương Tây. Các vua nhà Nguyễn đã “đóng cửa” chính sách bế quan tỏa cảng, cự tuyệt việc quan hệ với các nước phương Tây đã trở thành một quốc sách của cả triều nhà Nguyễn.
Về mặt văn hóa giáo dục:Từ giữa thế kỷXVIII, giáo dục thi cử của nước ta ngày càng sa sút. Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Gia Long định tổ chức lại việc giáo dục thi cử nhưng không làm được.Việc học hành phải mất mấy năm mới dần dần được khôi phục.Năm Đinh Mão 1807 mới tổ chức được khoa thi Hương đầu tiên của triều nhà Nguyễn, mà cũng chỉ tổ chức được ở những trường thi ở Bắc Hà (số lượng người đỗ đạt rất ít). Từ sau đó, số trườngthi Hương trong cả nước rút xuống còn 6 trường, kỳ hạn thi không cố định.
Đã có thi Hương nhưng chưa có thi Hội và thi Đình trong suốt thời kỳ vua Gia Long trị vì. Đến đời vua Minh Mệnh vào năm 1822, nhà Nguyễn mới có điều kiện mở khoa thi Hội đầu tiên, và khoa thi Hội năm Nhâm Ngọ đó, lấy đỗ 8 Tiến sỹ (Nguyễn Ý, Lê Quang, Phan Hữu Tính, Hà Tôn Quyền, Đinh Văn Phác, Vũ Đức Khuê, Phan Bá Đạt và Trần Lê Hiệu), đây là 8 Tiến sỹ đầu tiên của vương triều nhà Nguyễn.
Đến năm Minh Mệnh thứ 7 (năm 1826) thi Hội triều đình nhà Nguyễn cũng chỉ lấy có 10 người đỗ Tiến sỹ. Vì lấy đỗ như vậy là quá ít so với các khoa thi Tiến sỹ đời nhà Lê trước đó, cho nên đến khoa thi năm Ất Sửu 1829, Bộ Lễ quy định mỗi khoa lấy thêm những người có điểm số gần sát với hạng Đệ tam giáp, nhưng tách riêng ra làm một bảng phụ, gọi là Phó bảng. Như vậy, Phó bảng cũng được chọn luôn trong kỳ thi đại khoa, nhưng về mặt đãi ngộ thì không được như những người đỗ chính bảng.
Đáng chú ý là ngay khoa thi đầu tiên, vua Minh Mệnh đã không cho ai đỗ Trạng nguyên, và từ đó về sau lấy đó lam định lệ, lệ này chính là một trong bốn quy định đặc thù của triều nhà Nguyễn mà sử thường gọi là lệ “Tứ bất”. Như vậy học vị Phó bảng cũng có từ năm này, trong lịch sử khoa bảng của nhà Nguyễn tính từ năm 1829 đến năm thi Hương cuối cùng năm 1919 tròn đúng 90 năm, đã tuyển chọn được 260 Phó bảng trên 557 vị đại khoa của 39 khoa thi Hội.
Cả hai đời vua Minh Mệnh và Thiệu Trị vẫn mở khoa thi Hội theo định lệ là cứ 3 năm thi một lần. Chỉ đến đời vua Tự Đức mới đặt Ân khoa, nghĩa là khoa thi vua đặc ân cho mở thêm ngoài các năm quy định.
Việc tổ chức các khoa thi dưới triều nhà Nguyễn, nhất là thi Hội nhằm mục đích kén chọn nhân tài giúp nước, bổ sung quan chức cấp cao cho chính quyền. Đó là việc trọng đại, thậm chí là rất quan trọng, nên đã được triều nhà Nguyễn quan tâm.
Tuy nhiên sang đầu thế kỷ XX, những năm dưới triều vua Thành Thái và Duy Tân, dư luận ngày càng phê phán lối học khoa cử lỗi thời. Đến năm Kỷ Mùi 1919, khoa thi Hội dưới thời vua Khải Định đã trở thành khoa thi cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Cuối cùng, vào ngày 30 tháng 8 năm Ất Dậu 1945, trước hơn 5 vạn nhân dân thành phố Huế tập trung ở cửa Ngọ Môn, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn đồng thời cũng là vị vua cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền Cách mạng và tuyên bố rằng: “Làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Vương triều nhà Nguyễn đến đây đã sụp đổ hoàn toàn.
Như vậy, Vương triều nhà Nguyễn bắt đầu được thành lập từ năm 1802, đến năm 1945 tồn tại đúng 143 năm. Trên thực tế thì năm 1883, khi triều nhà Nguyễn phải ký hiệp ước Hác –măng (Harmand) chấp nhận để cho thực dân Pháp đặt quyền thống trị trên toan bộ lãnh thổ nước ta thì các vị vua nhà Nguyễn sau đó cũng chỉ là bù nhìn.
Triều nhà Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến của Việt Nam, mặc dù để mất nước vào tay thực dân Pháp, nhưng vương triều nhà Nguyễn cũng đã có đóng góp nhiều cho sự phát triển của dân tộc ta.