Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

tham khảo
Hoa Kỳ ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập, góp phần đảm bảo an ninh quốc tế; tham gia các quan hệ thương mại hai bên cùng có lợi; và tôn trọng nhân quyền và pháp quyền. ... Năm 2020, Việt Nam và Hoa Kỳ đã kỷ niệm 25 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước, tiếp tục cam kết tăng cường hợp tác.
mk cop mạng:>
Hoa Kỳ ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập, góp phần đảm bảo an ninh quốc tế; tham gia các quan hệ thương mại hai bên cùng có lợi; và tôn trọng nhân quyền và pháp quyền. ... Năm 2020, Việt Nam và Hoa Kỳ đã kỷ niệm 25 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước, tiếp tục cam kết tăng cường hợp tác.

Phải nói là hãy nêu quan hệ của Liên Xô và Việt Nam chứ. Gop-ba-chop với Việt Nam liên quan dì?

I. Ngày lập quan hệ ngoại giao: 21/09/1973
- Sau năm 1975, hai bên trao đổi Đại sứ quán; ký thoả thuận về việc Chính phủ Nhật Bản bồi thường chiến tranh với danh nghĩa viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản đối với Việt Nam 13,5 tỷ Yên (khoảng 49 triệu USD). Giai đoạn 1979-1990, do vấn đề Campuchia, Nhật Bản đông kết các khoản viện trợ đã thỏa thuận, lấy vấn đề rút quân Việt Nam khỏi Campuchia làm điều kiện mở lại viện trợ; phối hợp với Mỹ và Phương Tây ngăn cản các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB, ADB…) cung cấp tài chính cho Việt Nam. Quan hệ chính trị rất hạn chế.
- Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Từ đó đến nay, các mối quan hệ kinh tế, chính trị, giao lưu văn hoá… được mở rộng; sự hiểu biết và tin cậy giữa hai nước từng bước được tăng lên.
Nhật Bản là nước G-7 đầu tiên đón Tổng Bí thư ta đi thăm (năm 1995), nước G-7 đầu tiên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với ta (năm 2009), nước G-7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (năm 2011) và là nước G-7 đầu tiên nguyên thủ gọi điện thoại cho Lãnh đạo cấp cao của ta ngay sau khi lên nắm quyền (năm 2012).
II. Khuôn khổ quan hệ giữa hai nước không ngừng được nâng cấp với nội dung hợp tác ngày càng sâu rộng. Từ quan hệ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài” (4/2002) lên Đối tác bền vững (7/2004). Tháng 11/2006, nhân chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hai bên ký Tuyên bố chung về “Hướng tới đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á”. Năm 2007, Tuyên bố chung về việc “Làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản” và “Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược” (nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 11/2007).
Năm 2009, Tuyên bố chung về "Quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á", nhất trí đưa quan hệ hai nước lên tầm đối tác chiến lược (nhân chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 4/2009). Nhật Bản là nước đầu tiên trong các nước G-7 thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với ta (nước tiếp theo là Anh năm 2010, Đức năm 2011).
- Năm 2010, "Tuyên bố chung Việt Nam-Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á" (nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tháng 10/2010).
- Năm 2011, "Tuyên bố chung triển khai hành động trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản" (nhân chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 10/2011).
- Năm 2013, lần đầu tiên hai nước tổ chức Năm hữu nghị nhân kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao.
- Năm 2014, “Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á” (nhân chuyến thăm Nhật Bản cấp Nhà nước của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang).
III. Về quan hệ chính trị
- Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực.
- Một số cơ chế đối thoại giữa hai nước:
+ Tháng 5/2007, hai bên thành lập Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (đã họp 5 phiên).
+ Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản về ngoại giao-an ninh-quốc phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao từ năm 2010 (đã họp 4 phiên).
+ Đối thoại chính sách quốc phòng Việt-Nhật cấp Thứ trưởng từ tháng 11/2012 (đã họp 2 phiên).
+ Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (đã họp phiên đầu tiên tháng 11/2013).
+ Đối thoại chính trị định kỳ ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao (từ năm 1993).
- Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật...).
IV. Về kinh tế
Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011).
Đến nay, Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam (cả về tổng vốn đầu tư và vốn đã giải ngân), đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam.
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (tháng 12/2004), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) (tháng 10/2009)... tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước.
Hiện tại, Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ ta phát triển công nghiệp trong khuôn khổ Ban Chỉ đạo Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020 do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải làm Trưởng Ban (được thành lập ngày 13/8/2012).
Hai bên đã phối hợp tốt để giải quyết một số sự cố trong hợp tác kinh tế như vụ PMU 18 (2006); vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ (2007); vụ công ty PCI Nhật Bản hối lộ (2008).
Về thương mại:
Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999. Năm 2013, Nhật Bản là bạn hàng thương mại đứng thứ 4 của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 25,163 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,581 tỷ USD (tăng 4% so với năm 2012), nhập khẩu đạt 11,582 tỷ USD (giảm 0,2%).
4 tháng đầu năm 2014, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 8,537 tỷ USD tỷ USD, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 5,059 tỷ USD (tăng 23% so với năm 2013), nhập khẩu đạt 3,478 tỷ USD (giảm 1,6%) (Nguồn Bộ Công Thương).
Hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là thủy sản, dệt may, dầu thô, cáp điện, than đá, đồ gỗ… hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; sắt thép các loại; vải các loại; linh kiện ôtô; nguyên liệu dệt, da…
Ngày 21/1/2014, Nhật Bản đã bãi bỏ việc kiểm tra toàn bộ tồn dư chất Ethoxyquin đối với tôm của Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy thương mại hai chiều về mặt hàng nông lâm thủy sản.
Về đầu tư trực tiếp:
Hai bên đã cơ bản hoàn thành Giai đoạn IV Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản về cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam và thỏa thuận khởi động Giai đoạn V Sáng kiến chung trong năm 2013.
Năm 2013, FDI Nhật Bản dẫn đầu (trong tổng số 54 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam) với tổng đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 5,747 tỷ USD (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài đến ngày 15/12/2013).
4 tháng đầu năm 2014, Nhật Bản có 104 dự án cấp mới và tăng vốn với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt 531,06 triệu USD, đứng thứ 2/36 (sau Hàn Quốc).
Lũy kế đến hết tháng 4/2014, Nhật Bản có 2.226 dự án còn giá trị hiệu lực với tổng số vốn đạt 35,5 tỷ USD, đứng đầu trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài).
Về viện trợ phát triển chính thức ODA:
Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Từ năm 1992 đến hết tài khóa 2012 (31/3/2013), Nhật Bản đã cam kết khoảng 2.118 tỷ Yên (khoảng 24 tỷ USD theo tỷ giá hiện nay) vốn vay ODA cho Việt Nam. Nhật Bản đã cam kết 1,55 tỷ USD ODA cho Việt Nam trong tài khóa 2013.
Nhân chuyến thăm Nhật Bản của Chủ tịch nước, hai bên đã ký Công hàm trao đổi và Hiệp định vay cho 05 dự án ODA thuộc đợt 2 tài khóa 2013 trị giá 120 tỷ yên ưu đãi. Như vậy, trong tài khóa 2013, Nhật Bản đã cam kết 2,1 tỷ USD ODA vốn vay cho Việt Nam cho 10 chương trình/dự án4.
V. Về hợp tác khoa học, công nghệ
Kể từ khi Hiệp định giữa Chính phủ hai nước Việt Nam-Nhật Bản về khoa học và công nghệ được ký năm 2006 đến nay, Ủy ban hỗn hợp Việt Nam-Nhật Bản về hợp tác khoa học và công nghệ đã tổ chức họp 3 lần. Số lượng các nhà khoa học Việt Nam sang Nhật Bản và các nhà khoa học Nhật Bản sang Việt Nam tiến hành các hoạt động nghiên cứu chung ngày càng tăng. Hiện tại, Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ ta phát triển điện hạt nhân và an toàn bức xạ và hạt nhân; khai thác và chế biến đất hiếm; hợp tác về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng và sở hữu trí tuệ.
Hai bên đang triển khai một số dự án quan trọng trong lĩnh vực này dưới hình thức Nhật Bản hỗ trợ vốn vay ODA cho Việt Nam: Dự án phát triển cơ sở hạ tầng Khu công nghệ cao Hòa Lạc; Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
VI. Về hợp tác lao động
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử khoảng 31.000 tu nghiệp sinh sang Nhật Bản. Hiện có khoảng 18.000 lao động, thực tập sinh Việt Nam tại Nhật Bản. Trong những năm gần đây, số lượng lao động, thực tập sinh liên tục tăng (năm 2009: 5.500 người, năm 2010: 5.000 người, 2011: 7.000 người, 2012: 8.500 người). Hiện ta đang đề nghị Nhật Bản tiếp nhận thực tập sinh trong lĩnh vực nông-ngư nghiệp, chế biến nông-hải sản với số lượng nhiều trong thời gian tới.
Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam (trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế song phương EPA tháng 10/2011). Ta là nước Đông Nam Á thứ ba sau Philippines và Indonesia phía Nhật Bản nhận điều dưỡng viên, hộ lý. Hiện khóa học đào tạo 12 tháng tại Việt Nam trước khi sang Nhật đối với ứng viên tài khóa 2012 đã khai giảng tháng 12/2012 (150 người). Theo kế hoạch, khóa tiếp theo sẽ tuyển khoảng 180 ứng viên.
VII. Về du lịch
Tháng 4/2005, hai bên ký Tuyên bố chung về hợp tác du lịch Việt Nam-Nhật Bản, tạo điều kiện cho việc thu hút khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Số lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam tăng đều trong những năm qua. Năm 2013 có 604.050 lượt khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2012.
Lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam 4 tháng đầu năm 2014 đạt 222.278 lượt (đứng thứ 3 sau Trung Quốc, Hàn Quốc), tăng 8,45% so với cùng kỳ năm 2013 (Nguồn: Tổng Cục Du...
bạn tóm tắt sơ lược dùm mk đc không, dài như này mk chép mạng cx đc, mk cần gấp lm bài thi ạ

Thời Chiến Tranh:
- Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, Cuba đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ về mặt chính trị đối với Việt Nam. Lãnh tụ Cuba Fidel Castro đã phê phán sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam và kêu gọi hỗ trợ quốc tế cho Việt Nam.
- Cuba đã gửi nhiều đợt tình nguyện viên đến Việt Nam để giúp đỡ trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục và xây dựng hạ tầng.
- Fidel Castro đã thăm Việt Nam vào năm 1973, trong đó ông đã đến Quảng Trị, một trong những vùng bị tàn phá nặng nề nhất bởi chiến tranh. Chuyến thăm này đã thể hiện tình đoàn kết sâu sắc giữa hai quốc gia.
Thời Bình:
- Mối quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia đã phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh. Việt Nam và Cuba đã ký nhiều thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, y tế, giáo dục và công nghệ.
- Hai quốc gia đã hợp tác trong việc trao đổi sinh viên và chương trình văn hóa, giúp củng cố mối quan hệ giữa hai dân tộc.
- Dù ở mức độ không lớn như thời chiến tranh, nhưng Việt Nam và Cuba vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng.

Sau hai mươi năm gián đoạn kể từ khi kết thúc chiến tranh, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố chính thức bình thường hóaquan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 11 tháng 7 năm 1995 và nâng cấp Văn phòng Liên lạc thành tòa đại sứ đặt tại Hà Nội. Việt Nam đặt tòa đại sứ ở Washington D.C., một tòa tổng lãnh sự tại San Francisco (tiểu bang California) một tại Houston (tiểu bang Texas) và một tại thành phố New York (tiểu bang bang New York). Hoa Kỳ có một tòa tổng lãnh sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và dự kiến mở thêm một tòa tổng lãnh sự ở Đà Nẵng[1].
Ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên sâu và đa dạng hơn trong những năm đã bình thường hóa chính trị. Hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực. Họ ký kết Hiệp định Thương mại song phương vào tháng 7 năm 2000, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Tháng 11, 2007, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc thể hiện ở việc sau khi tìm thấy, lựa chọn con đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ hoạt động khẩn trương, tích cực, sáng tạo, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức để dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mà còn nhạy cảm, nắm bắt được tình hình cách mạng trong nước để triệu tập Hội nghị các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của ĐảngCộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.
Vai trò quan trọng: biết nắm bắt tình hình để triệu tập hội nghị thành lập Đảng
Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc (LHQ) ngày 20/9/1977. Kể từ đó, quan hệ của Việt Nam với LHQ ngày càng phát triển. Ngay sau khi tham gia LHQ, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên Liên hợp quốc để Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) thông qua Nghị quyết 32/2 kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh. Mặt khác, chúng ta cũng tranh thủ được sự giúp đỡ về nguồn vốn, chất xám, kỹ thuật của LHQ phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế–xã hội của đất nước. LHQ trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của chính sách đối ngoại.