K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 2 2019
Như chúng ta đã biết: năm 1427 đánh dấu sự kiện trọng đại quân ta đại thắng chống lại giặc Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã sáng tác ra “ Đại cáo bình Ngô”- được coi là bản tuyên ngôn độc lập, một áng “ thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. “ Bình Ngô đại cáo” đã nói lên phần nào nỗi lòng của Nguyễn Trãi cũng như của cả dân tộc Việt Nam ta: căm thù, phẫn uất trước kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về chiến công to lớn của thời đại. “ Đại cáo bình Ngô” được viết theo thể cáo, gồm bốn phần với những ý nghĩa sâu sắc khác nhau.

Chúng ta hãy cùng đến với đoạn mở của” Bình Ngô đại cáo”. Ở đoạn này, tác giả đã khẳng định luận đề chính nghĩa ngay ở những câu đầu tiên:

“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”


Tác giả khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh là để cuộc sống yên bình, là diệt trừ những thế lực tham tàn, bạo ngược, đó chính là việc làm danh nghĩa. Sau đó, Nguyễn Trãi còn khẳng định nước ta là một nước độc lập có chủ quyền, có lãnh thổ, phong tục, triều đại riêng…. Ở đây, giọng thơ nghe sao tự hào quá đỗi. Phải chăng, đây chính là những dòng thơ viết từ chính tiếng lòng hạnh phúc của Nguyễn Trãi, từ chính tấm lòng yêu quê hương, đất nước cao đẹp:

“ Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”


Bằng những lí lẽ xác đáng, lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa, hợp với lòng dân, hợp với quy luật là chính nghĩa. Và lẽ dĩ nhiên, những việc làm cao quý đó chỉ có thể xuất phát từ một lòng yêu nước, thương dân cao cả.

Vạch rõ, tố cáo những tội ác của giặc Minh chính là nội dung chính của đoạn tiếp theo. Ở đây, Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt tội ác của giặc Minh. Chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má, phuaphen nặng nề, vơ vét sản vật quý hiếm, diệt xản xuất, sự sống, tàn sát dã man dân ta, làm cho dân ta lâm vào cảnh” khốn cùng”.

“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”


Cuối cùng, sau khi liệt kê một loạt tội ác của giặc Minh, tác giả đã bộc lộ thái độ căm thù, phẫn uất đồng thời kết tội chúng:

“ Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được ? “


Tác giả đã có cách lập luận chặt chẽ, lời văn đanh thép, sử dụng những hình ảnh rất thực và có sức khái quát cao, giọng văn linh hoạt để kết tội giặc Minh. Có thể nói, phần thứ hai là một bảng cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của giặc Minh là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ.
Đoạn tiếp theo kể về quá trình nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống lại giặc Minh bạo tàn. Tả về những ngày đầu kháng chiến đầy gian khổ, tác giả đã lấy đó làm nền để lột tả hết những chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta:

“ Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.


Lại ngặt vì :

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu. “


Trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém, có khi lương thực cạn kiệt, có khi quân ta hiếm hoi nhân tài. Thế nhưng, nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ địch. Đó là do người lãnh đạo có quyết tâm cao độ, có những chiến lược, chiến thuật phù hợp để nâng cao sức mạnh của tình đoàn kết của nhân dân, chú trọng mưu cơ hơn binh lực. Có thể nói, hình tượng của Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng áo vải sinh động và toàn diện.

Với giọng điệu hào hùng, tác giả đã kể về ba trận đánh: Trận Bồ Đằng-tro bay ; Trận Ninh Kiều-tết động ; Trận Chi Lăng-Mã An đến Xương Giang. Trong một loạt những cặp câu biền ngẫu, lối viết thậm xưng, nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ mang đậm chất anh hùng ca, tác giả đã nhấn mạnh được sự thất bại thảm hại của giặc Minh và khí thế hào hùng của quân ta.

Đoạn cuối, tác giả đã tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự nghiệp chiến đấu chính nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn:

“ Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới “


Bằng giọng văn nhẹ nhàng khoan thai, tác giả đã tuyên bố nền hòa bình của dân tộc ta đã được lặp lại. Đồng thời, tác giả cũng rút ra bài học lịch sử và thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc, “ Đại cáo bình Ngô “ đã có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương, được xem là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. Ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần tự lập tự cường nêu bật sức mạnh của nhân dân ta, mở ra kỷ nguyên mới-kỉ nguyên hòa bình, độc lập tự do cho lịch sử dân tộc chính là những ý nghĩa sâu sắc mà “Bình Ngô đại cáo” mang lại.

“Đại cáo bình Ngô” tiêu biểu cho thể loại cáo, tiêu biểu cho thể loại văn chính luận của Nguyễn Trãi. Bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, thể hiện được khát vọng tự chủ độc lập, yêu chuộng hòa bình.
25 tháng 2 2022

Tham khảo:

Nguyễn Trãi được xếp vào 1 trong 14 vị anh hùng dân tộc, đồng thời là 1 trong 3 tác giả của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới cùng với Nguyễn Du và Hồ Chí Minh . Ông là bậc khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc và kiệt xuất, có nhiều công lao to lớn khi tham gia tích cực vào khởi nghĩa Lam Sơn, giúp Lê Lợi chiến thắng giặc Minh xâm lược. Trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi có nhiều công tích vẻ vang thế nhưng rốt cuộc cuối đời lại vướng vào nỗi oan mưu phản giết vua, phải chịu chết trong oan ức. Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi có khá nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó Bình ngô đại cáo nổi danh là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước ta, được xem áng thiên cổ hùng văn, là mẫu mực của thể loại cáo trong văn học trung đại, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, chính trị, ngoại giao, giá trị tư tưởng của người viết và cả giá trị văn học cho đến ngày hôm nay.

Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình danh giá, cả họ nội và ngoại đều có truyền thống yêu nước và truyền thống văn học, cha là Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi phải gánh chịu nhiều mất mát, năm 5 tuổi thì mẹ mất, năm 10 tuổi thì ông ngoại qua đời. Đến năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, tuy nhiên, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan trong khoảng 10 năm trời. Sau đó, ông trốn thoát và tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê. Cuối năm 1427 đâu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo chiếu cáo thiên hạ thắng lợi của nghĩa quân, cũng như mở ra kỷ nguyên mới độc lập của dân tộc. Tuy nhiên nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn, chia bè kéo phái, dẫn đến việc nhiều bậc công thần trong đó có Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời. Khiến ông bất đắc chí và năm 1439 xin về ở ẩn ở Côn Sơn, nhưng ngay sau đó năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Trong lúc Nguyễn Trãi đang hăng hái hết lòng kiến thiết, canh tân đất nước thì năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát - Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.

Về sự nghiệp thơ văn, Nguyễn Trãi vừa là nhà văn chính luận kiệt xuất cũng vừa là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, đây là hai mảng sáng tác lớn nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Ông để lại một số lượng lớn tác phẩm trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào nó cũng đạt đến trình độ xuất sắc. Trong lĩnh vực lịch sử có Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; trong lĩnh vực chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo; trong lĩnh vực địa lý ông để lại cuốn Dư địa chí - được đánh giá là cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam. Ở thể loại văn học, các sáng tác bằng chữ Hán có cuốn Ức Trai thi tập, sáng tác bằng chữ Nôm có tập Quốc âm thi tập - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay. Từ số lượng tác phẩm lớn, đa dạng và phong phú trong nhiều lĩnh vực có thể thấy rằng Nguyễn Trãi là một người vô cùng tài giỏi và có vốn hiểu biết rộng lớn, xứng danh là bậc đại thi hào của dân tộc Việt Nam ta.

Với tư cách là một nhà văn chính luận kiệt xuất, ông cũng để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê. Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, đặc sắc nghệ thuật nằm ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng. Thêm nữa, tất cả các tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Trãi đều được đánh giá là áng văn chính luận mẫu mực.

Với tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, các tác phẩm hiện còn gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập như đã kể trên, nội dung bao hàm chủ yếu là ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế. Tư cách người anh hùng vĩ đại hiện lên thông qua: Lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân; ý chí chống ngoại xâm và cường quyền bạo lực; các phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử hướng đến mục đích giúp nước giúp dân bao gồm dáng đứng ngay thẳng cứng cỏi của cây trúc, vẻ thanh tao trong trắng của cây mai, và sức sống khỏe khoắn của cây tùng. Trong tư cách là một con người trần thế, ông hiện lên với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, ông đau đớn trước nghịch cảnh éo le của xã hội cũ, trước thói đời bạc bẽo, nham hiểm, ông cũng có những tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước con người và cuộc sống, đồng thời thể hiện cả những tình nghĩa giữa cha con, vua tôi, bạn bè rất sâu nặng.

Tổng kết lại Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV là một hiện tượng văn học kết tinh của truyền thống văn học Lý - Trần và cũng mở ra một giai đoạn phát triển mới cho văn học trung đại. Văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo, có đóng góp lớn trên cả hai bình diện là thể loại và ngôn ngữ.

Về Bình Ngô đại cáo, tác phẩm ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước. Trước thắng lợi vang dội của nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà. Bản cáo được ban bố vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề, sở dĩ gọi là "Bình Ngô đại cáo", bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, mà trong chế độ quân chủ chuyên chế, vua tức là đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc và chế độ của nước đó. Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô", tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ. Theo một cách lý giải khác nữa thì trong thời kỳ tam quốc phân tranh Ngụy-Thục-Ngô, thì Ngô là nước đã cai trị nước ta bằng những biện pháp vô cùng hung bạo và tàn nhẫn, khiến nhân dân đói khổ lầm than, vậy nên giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo. Hai chữ "đại cáo" tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc, đóng vai trò là xương sống: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo" vốn xuyên suốt trong tác phẩm. Bên cạnh đó được biết "đại cáo" là một trong những thể loại văn bản pháp luật chính thức của nhà Minh, Nguyễn Trãi viết theo thể này, mục đích là khẳng định tính chất pháp lý của việc cần tuyên bố, không chỉ là hướng tới nhân dân Đại Việt mà còn có ý nghĩa chính trị hướng tới nhà Minh. Là một biện pháp thông minh, khẳng định sự ngang hàng về tầm vóc lịch sử, chính trị, sự tách biệt về lãnh thổ, văn hóa, nhà Minh có thể dùng "đại cáo" chiếu cáo thiên hạ, thì Đại Việt ta cũng có thể dùng nó để ban bố, tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc một cách dõng dạc, chuyên chính có giá trị tương đương với "đại cáo" của nhà Minh. Về thể loại "cáo", đây là một thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng, để trình bày một chủ trương một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Được phân ra làm 2 loại phổ biến, thứ nhất là loại văn cáo thường ngày, thứ hai là "đại cáo" mang tính chất quốc gia, có ý nghĩa trọng đại. Về đặc trưng, cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, nhưng chủ yếu là văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối dài ngắn không gò bó, mỗi cặp 2 vế đối nhau. Đây là thể văn hùng biện nên lời lẽ phải đanh thép, lý luận phải sắc bén, kết cấu bố cục phải chặt chẽ mạch lạc.

Về bố cục, Bình Ngô đại cáo cũng tuân thủ theo bố cục của các văn bản chính luận khác. Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

Ở đoạn đầu tiên Nguyễn Trãi đi vào nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn, một là tư tưởng nhân nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân. Hai là khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán. Sử dụng các dẫn chứng, lý lẽ vô cùng thuyết phục và xác đáng làm tăng độ tin cậy cũng như sự vững chãi, tính chính nghĩa của luận đề.

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi"

Ở đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào phân tích thực tiễn, tố cáo âm mưu tội ác của giặc Minh. Thứ nhất chúng lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.

"Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh"

Thứ hai Nguyễn Trãi nêu ra những tội ác của giặc Minh gây ra cho dân tộc ta bao gồm tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nổi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi"

Mà tổng kết lại cho tội ác của giặc Nguyễn Trãi đã dùng hai câu "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi", để diễn tả sự vô cùng, vô tận, sự bẩn thỉu, nhơ nhuốc của tội ác mà giặc Minh đã gây ra cho dân tộc Đại Việt.

Sang đoạn thứ 3, đầu tiên là đi vào tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.

"Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh"

Tiếp đến là kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn, từ lúc khởi nghĩa còn non trẻ, nhiều khó khăn, thiếu thốn cả người tài giỏi, lẫn nhu yếu phẩm, lương thực vũ khí.

"Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

...

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội."

Cho đến khi nghĩa quân khắc phục được khó khăn, tìm ra giải pháp, mở ra một con đường sáng cho cuộc khởi nghĩa nhờ ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của quân dân, tướng sĩ một lòng.

"Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

...

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công"

Cuối cùng là trận phản công trước sự ngoan cố, âm mưu tiếp viện của nhà Minh, quyết định chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, khiến Vương Thông phải xin hàng, tháo chạy về nước:

"Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

...

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay"

Đến phần thứ tư là phần tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới". Sau cùng là rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:

"Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

...

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay."

Về mặt nghệ thuật, bài cáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương nghệ thuật. Yếu tố chính luận thể hiện ở kết cấu chặt chẽ của tác phẩm, đi từ luận đề chính nghĩa, rồi soi chân lý vào thực tiễn, vạch trần tội ác của kẻ thù, phân biệt rõ phải trái đúng sai, để làm nổi bật lên tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, rồi cuối cùng đưa ra lời kết luận, tuyên bố sự chiến thắng vẻ vang, hào hùng. Thứ hai nữa là lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn. Bên cạnh yếu tố chính luận, thì chất văn chương nghệ thuật cũng được tác giả thể hiện nhuần nhuyễn trong tác phẩm, với lời văn rất giàu cảm xúc, xen lẫn giữa những đoạn thuật lại một cách khách quan, là những đoạn bộc lộ cảm xúc trực tiếp của tác giả (sự tức giận, phẫn nộ, oán hận trước tội ác của giặc Minh, sự tự hào, niềm vui trước chiến thắng của quân ta, cùng thái độ mỉa mai khinh nhờn trước thất bại của kẻ thù). Tiếp theo nữa là câu văn rất giàu hình tượng nghệ thuật sinh động tạo ra sức mạnh gợi cảm, gợi tả lớn (Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi), đồng thời tác giả cũng vận dụng cả sự hiểu biết của mình về các điển tích điển cố, lịch sử để làm cho bài cáo thêm linh hoạt, hấp dẫn và trang trọng.

Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm chính luận kiệt xuất, mang trong mình giá trị nội dung sâu sắc, giá trị lịch sử, chính trị, văn học lâu bền, có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Tác phẩm xứng đáng được người đời xưng tụng là áng thiên cổ hùng văn, là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam, khẳng định tài năng cũng như tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc của tác gia Nguyễn Trãi.

25 tháng 2 2022

Tham khảo

 

Nguyễn Trãi được xếp vào 1 trong 14 vị anh hùng dân tộc, đồng thời là 1 trong 3 tác giả của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới cùng với Nguyễn Du và Hồ Chí Minh . Ông là bậc khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc và kiệt xuất, có nhiều công lao to lớn khi tham gia tích cực vào khởi nghĩa Lam Sơn, giúp Lê Lợi chiến thắng giặc Minh xâm lược. Trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi có nhiều công tích vẻ vang thế nhưng rốt cuộc cuối đời lại vướng vào nỗi oan mưu phản giết vua, phải chịu chết trong oan ức. Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi có khá nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó Bình ngô đại cáo nổi danh là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước ta, được xem áng thiên cổ hùng văn, là mẫu mực của thể loại cáo trong văn học trung đại, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, chính trị, ngoại giao, giá trị tư tưởng của người viết và cả giá trị văn học cho đến ngày hôm nay.

 

Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình danh giá, cả họ nội và ngoại đều có truyền thống yêu nước và truyền thống văn học, cha là Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi phải gánh chịu nhiều mất mát, năm 5 tuổi thì mẹ mất, năm 10 tuổi thì ông ngoại qua đời. Đến năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, tuy nhiên, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan trong khoảng 10 năm trời. Sau đó, ông trốn thoát và tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê. Cuối năm 1427 đâu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo chiếu cáo thiên hạ thắng lợi của nghĩa quân, cũng như mở ra kỷ nguyên mới độc lập của dân tộc. Tuy nhiên nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn, chia bè kéo phái, dẫn đến việc nhiều bậc công thần trong đó có Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời. Khiến ông bất đắc chí và năm 1439 xin về ở ẩn ở Côn Sơn, nhưng ngay sau đó năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Trong lúc Nguyễn Trãi đang hăng hái hết lòng kiến thiết, canh tân đất nước thì năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát - Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.

Về sự nghiệp thơ văn, Nguyễn Trãi vừa là nhà văn chính luận kiệt xuất cũng vừa là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, đây là hai mảng sáng tác lớn nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Ông để lại một số lượng lớn tác phẩm trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào nó cũng đạt đến trình độ xuất sắc. Trong lĩnh vực lịch sử có Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; trong lĩnh vực chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo; trong lĩnh vực địa lý ông để lại cuốn Dư địa chí - được đánh giá là cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam. Ở thể loại văn học, các sáng tác bằng chữ Hán có cuốn Ức Trai thi tập, sáng tác bằng chữ Nôm có tập Quốc âm thi tập - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay. Từ số lượng tác phẩm lớn, đa dạng và phong phú trong nhiều lĩnh vực có thể thấy rằng Nguyễn Trãi là một người vô cùng tài giỏi và có vốn hiểu biết rộng lớn, xứng danh là bậc đại thi hào của dân tộc Việt Nam ta.

 

Với tư cách là một nhà văn chính luận kiệt xuất, ông cũng để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê. Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, đặc sắc nghệ thuật nằm ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng. Thêm nữa, tất cả các tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Trãi đều được đánh giá là áng văn chính luận mẫu mực.

Với tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, các tác phẩm hiện còn gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập như đã kể trên, nội dung bao hàm chủ yếu là ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế. Tư cách người anh hùng vĩ đại hiện lên thông qua: Lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân; ý chí chống ngoại xâm và cường quyền bạo lực; các phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử hướng đến mục đích giúp nước giúp dân bao gồm dáng đứng ngay thẳng cứng cỏi của cây trúc, vẻ thanh tao trong trắng của cây mai, và sức sống khỏe khoắn của cây tùng. Trong tư cách là một con người trần thế, ông hiện lên với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, ông đau đớn trước nghịch cảnh éo le của xã hội cũ, trước thói đời bạc bẽo, nham hiểm, ông cũng có những tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước con người và cuộc sống, đồng thời thể hiện cả những tình nghĩa giữa cha con, vua tôi, bạn bè rất sâu nặng.

Tổng kết lại Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV là một hiện tượng văn học kết tinh của truyền thống văn học Lý - Trần và cũng mở ra một giai đoạn phát triển mới cho văn học trung đại. Văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo, có đóng góp lớn trên cả hai bình diện là thể loại và ngôn ngữ.

Về Bình Ngô đại cáo, tác phẩm ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước. Trước thắng lợi vang dội của nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà. Bản cáo được ban bố vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề, sở dĩ gọi là "Bình Ngô đại cáo", bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, mà trong chế độ quân chủ chuyên chế, vua tức là đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc và chế độ của nước đó. Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô", tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ. Theo một cách lý giải khác nữa thì trong thời kỳ tam quốc phân tranh Ngụy-Thục-Ngô, thì Ngô là nước đã cai trị nước ta bằng những biện pháp vô cùng hung bạo và tàn nhẫn, khiến nhân dân đói khổ lầm than, vậy nên giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo. Hai chữ "đại cáo" tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc, đóng vai trò là xương sống: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo" vốn xuyên suốt trong tác phẩm. Bên cạnh đó được biết "đại cáo" là một trong những thể loại văn bản pháp luật chính thức của nhà Minh, Nguyễn Trãi viết theo thể này, mục đích là khẳng định tính chất pháp lý của việc cần tuyên bố, không chỉ là hướng tới nhân dân Đại Việt mà còn có ý nghĩa chính trị hướng tới nhà Minh. Là một biện pháp thông minh, khẳng định sự ngang hàng về tầm vóc lịch sử, chính trị, sự tách biệt về lãnh thổ, văn hóa, nhà Minh có thể dùng "đại cáo" chiếu cáo thiên hạ, thì Đại Việt ta cũng có thể dùng nó để ban bố, tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc một cách dõng dạc, chuyên chính có giá trị tương đương với "đại cáo" của nhà Minh. Về thể loại "cáo", đây là một thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng, để trình bày một chủ trương một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Được phân ra làm 2 loại phổ biến, thứ nhất là loại văn cáo thường ngày, thứ hai là "đại cáo" mang tính chất quốc gia, có ý nghĩa trọng đại. Về đặc trưng, cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, nhưng chủ yếu là văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối dài ngắn không gò bó, mỗi cặp 2 vế đối nhau. Đây là thể văn hùng biện nên lời lẽ phải đanh thép, lý luận phải sắc bén, kết cấu bố cục phải chặt chẽ mạch lạc.

 

Về bố cục, Bình Ngô đại cáo cũng tuân thủ theo bố cục của các văn bản chính luận khác. Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

Ở đoạn đầu tiên Nguyễn Trãi đi vào nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn, một là tư tưởng nhân nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân. Hai là khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán. Sử dụng các dẫn chứng, lý lẽ vô cùng thuyết phục và xác đáng làm tăng độ tin cậy cũng như sự vững chãi, tính chính nghĩa của luận đề.

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi"

Ở đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào phân tích thực tiễn, tố cáo âm mưu tội ác của giặc Minh. Thứ nhất chúng lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.

"Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh"

Thứ hai Nguyễn Trãi nêu ra những tội ác của giặc Minh gây ra cho dân tộc ta bao gồm tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nổi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi"

Mà tổng kết lại cho tội ác của giặc Nguyễn Trãi đã dùng hai câu "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi", để diễn tả sự vô cùng, vô tận, sự bẩn thỉu, nhơ nhuốc của tội ác mà giặc Minh đã gây ra cho dân tộc Đại Việt.

Sang đoạn thứ 3, đầu tiên là đi vào tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.

"Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh"

Tiếp đến là kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn, từ lúc khởi nghĩa còn non trẻ, nhiều khó khăn, thiếu thốn cả người tài giỏi, lẫn nhu yếu phẩm, lương thực vũ khí.

"Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

...

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội."

Cho đến khi nghĩa quân khắc phục được khó khăn, tìm ra giải pháp, mở ra một con đường sáng cho cuộc khởi nghĩa nhờ ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của quân dân, tướng sĩ một lòng.

"Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

...

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công"

Cuối cùng là trận phản công trước sự ngoan cố, âm mưu tiếp viện của nhà Minh, quyết định chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, khiến Vương Thông phải xin hàng, tháo chạy về nước:

"Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

...

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay"

Đến phần thứ tư là phần tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới". Sau cùng là rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:

 

"Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

...

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay."

Về mặt nghệ thuật, bài cáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương nghệ thuật. Yếu tố chính luận thể hiện ở kết cấu chặt chẽ của tác phẩm, đi từ luận đề chính nghĩa, rồi soi chân lý vào thực tiễn, vạch trần tội ác của kẻ thù, phân biệt rõ phải trái đúng sai, để làm nổi bật lên tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, rồi cuối cùng đưa ra lời kết luận, tuyên bố sự chiến thắng vẻ vang, hào hùng. Thứ hai nữa là lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn. Bên cạnh yếu tố chính luận, thì chất văn chương nghệ thuật cũng được tác giả thể hiện nhuần nhuyễn trong tác phẩm, với lời văn rất giàu cảm xúc, xen lẫn giữa những đoạn thuật lại một cách khách quan, là những đoạn bộc lộ cảm xúc trực tiếp của tác giả (sự tức giận, phẫn nộ, oán hận trước tội ác của giặc Minh, sự tự hào, niềm vui trước chiến thắng của quân ta, cùng thái độ mỉa mai khinh nhờn trước thất bại của kẻ thù). Tiếp theo nữa là câu văn rất giàu hình tượng nghệ thuật sinh động tạo ra sức mạnh gợi cảm, gợi tả lớn (Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi), đồng thời tác giả cũng vận dụng cả sự hiểu biết của mình về các điển tích điển cố, lịch sử để làm cho bài cáo thêm linh hoạt, hấp dẫn và trang trọng.

Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm chính luận kiệt xuất, mang trong mình giá trị nội dung sâu sắc, giá trị lịch sử, chính trị, văn học lâu bền, có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Tác phẩm xứng đáng được người đời xưng tụng là áng thiên cổ hùng văn, là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam, khẳng định tài năng cũng như tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc của tác gia Nguyễn Trãi.

Thuyết minh về Nguyễn Trãi và Bình Ngô Đại Cáo mẫu 2

Để lại cho đời một kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm quý giá, đặc sắc cho nghệ thuật văn chương, khi nhắc đến Đại Cáo Bình Ngô, người đời lại nhớ đến văn hào–bậc đại anh hùng dân tộc đó là nhà thơ lớn Nguyễn Trãi.

Ông sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long- một nho sinh nghèo, học giỏi, đổ Tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái – Con quan tư đồ. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi có rất nhiều tai ươn và cực khổ song ông vẫn một lòng tận trung vì tổ quốc, điều đó đã trở thành truyền thống của gia đình ông: yêu nước, văn hóa và văn học, Và cũng vì lòng yêu nước ấy, khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, ông thừa lệnh Lê Lợi viết Đại Cáo Bình Ngô, từ đó ông đã gửi 1 phần lời bình của bản thân về tác phẩm ấy.

Cuối năm 1427 Nguyễn Trãi viết bài Cáo và đọc vào đầu 1428 trước toàn dân để báo với mọi người biết về sự việc chống Minh. Điều đó chứng tỏ chiến tranh đã kết thúc 20 năm đô hộ của giặc minh và kết thúc 10 năm diệt thù của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã đề cập đến. Hơn thế nữa, sự việc ấy đã mở ra một kỉ nguyên mới, bắt đầu một cuộc sống độc lập hòa bình của dân tộc và đất nước Đại Việt.

Khi nói đến Cáo, Cáo là một thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dung để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết, mang ý nghĩa như một sự kiện trọng đãi, có tình chất quốc gia. Chính thế, tác phẩm Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.

Đại Cáo Bình Ngô mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập, thể hiện được luận đề của chính nghĩa là ở đây: tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm nho giáo, nó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí mà “cốt ở yêu dân’’ trong câu:

"Từng nghe,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’

Từ đó, ta hiểu được Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng: “lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc”. Nghệ thuật của ông đưa ra đó là biện pháp so sánh, câu văn biền ngẫu song đôi mang cốt cách của nhà chính trị tài ba.

Bài Cáo của Nguyễn Trãi đã vạch trần được tội ác của kẻ thù:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Nặng thuế khóa…
Vét sản vật, bắt chim trả…’’

Chỉ một vài tội ác như thế cũng đủ lên áng bọn giặc Minh. Ý ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp nói lên tội ác tày trời của giặc Minh: Nghệ thuật phóng đãi, lấy cái vô hạn vô cùng của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn vô cùng của tội ác, hủy hoại cuộc sống của con người bằng cách diệt chủng.

Nếu như nói tội ác của giặc Minh là vô hạn thì nước Đại Việt ta nổi dậy có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân thù. Hình ảnh Lê Lợi là một co người tuy bình thường nhưng có ý tưởng hoài bão lớn lao cùng với sự đoàn kết một long của nhân dân ta đã làm nên sự tất thắng. Qua đó, ta thấy được hình tượng ngôn từ thật màu sắc, có âm thanh, nhịp điệu mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca, hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự kì vĩ lớn rộng của thiên nhiên cùng với động từ mạnh, chuyển dồn dập, dữ dội động từ và tính từ chỉ mức độ, khi thế chiến thắng của ta, sự thất bại của địch, câu văn dài ngắn biến hóa linh hoạt.

Kết thúc chiến tranh, mở ra một kỉ nguyên hòa bình: giọng văn thư thái, nhẹ nhàng, hả hê và sự tuyên bố nền độc lập dân tộc được thống nhất, rút ra bài học kinh nghiệm cho dân ta và bài học “dạy bảo” cho địch, sự kết hợp tinh tế giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại “trên dưới một lòng”, quyết tâm của nhân dân xây dựng nền thái bình vững chắc.

        VDO.AI

Tóm lại. Đại Cáo Bình Ngô mạng nội dụng trong quan niệm nho gia hầu như không có, đây là tư tưởng tiến bộ của chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, ranh giới, địa phận – lãnh thổ, phong tục tập quán, có lịch sử riêng, chế độ riêng với nhân tài phong kiến, những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận, lột tả tính chất tự nhiên, lâu đời của nước Đại Việt.

Trải qua bao cuộc đấu tranh cũng như những trang lịch sử được vạch ra, ý nghĩa nhất là cuộc khởi nghĩa Lam sơn chứng minh được sử tài ba của LÊ Lợi và văn hào Nguyễn Trãi. Ông là người có nổi oan thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, là một nhân vật lịch sử vĩ đại tiêu biểu trong quá khứ - một bậc đại anh hùng dân tộc – nhân vật toàn tài hiếm có. Từ Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi gợi tả bút pháp đặc sắc làm cho tôi cảm thấy tự hào, học hỏi được bởi lòng yêu nước, lòng đoàn kết của dân tộc ta qua bao nhiêu năm tháng kháng chiến giàn độc lập. Nếu là người Việt Nam thì thật tiếc cho những ai đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam mà không biết đến nhà chính trị tài ba Nguyễn Trãi.

5 tháng 5 2020

1. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân 

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

- Yên dân + Trừ bạo

-> Lo cho dân, vì dân => Tư tưởng cốt lõi để giành chiến thắng, cai trị đất nước.

=> Tư tưởng này vừa kế thừa, vừa có sự phát triển từ tư tưởng nhân nghĩa của cha ông.

+ Kế thừa ở chỗ: Nhân nghĩa chỉ mối quan hệ giữa người với người.

+ Phát triển ở chỗ: Nhân nghĩa chỉ quan hệ giữa dân tộc với dân tộc, gắn nhân nghĩa với yêu nước chống xâm lược.

14 tháng 6 2021

đề bài là j vậy ạ???

18 tháng 6 2021

Hình như là đề mở thì phải vì nó chỉ có như này thôi ạ

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
22 tháng 11 2023

Học sinh tự chọn một tác phẩm tiêu biểu để học thuộc.

30 tháng 6 2018

ĐÁP ÁN D

27 tháng 1 2019

Trong nền văn học trung đại, đặc biệt dưới thời vua Lý, Trần, Lê đã xuất hiện không ít các tác giả nổi tiếng, và gắn liền với tên tuổi của họ là những tác phẩm văn học bất hủ như: Lý Thường Kiệt với “Nam quốc sơn hà”, Trần Quang Khải với “Tụng giá hoànn kinh sư”. Và, có lẽ, trong số các tác giả đó, chưa có ai phải chịu một cái chết oan uổng như Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi không chỉ được mọi người biết đến với tài năng cùng nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại, lĩnh vực mà còn được mọi người tìm hiểu về một cuộc đời sóng gió, đầy trắc trở.
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại, sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long, một nho sinh nhà nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh thời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình mà cả bên nội cũng như bên ngoại, đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hoá, văn học. Từ nhỏ, Nguyễn Trãi thông minh, hiếu học, hiểu rõ đạo lý làm người… Nhưng, ông cũng phải chịu những mất mát đau thương: tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó, ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi lên 10 tuổi. Năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cả 2 cha con cùng làm quan dưới triều nhà Hồ. Về sau, khi nhà Hồ sụp đổ, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, ông xin đi theo cùng nhưng đến cửa ải, Nguyễn Phi Khanh lại khuyên ông nên quay trở về trả nợ nước, báo thù nhà, và trong cảnh biệt li đó, cha ông đã làm nên bài thơ “Hai chữ nước nhà” đầy cảm động. Về phần ông, vâng lời cha, ông quay trở về đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn, giúp Lê Lợi đánh đuổi giăc Minh, thống nhất đất nước. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình ngô sách: “hiến mưu trước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”, ông thuyết phục Lê Lợi dùng nhân nghĩa đối với tướng sĩ, dùng công tâm để lấy thành”. Ông đề ra 3 phương sách: công tâm là thượng sách, vừa công thành vừa công tâm là trung sách, công thành là hạ sách (3 phương sách này phù hợp với 3 đường lối trị nước là đế đạo, vuơng đạo và bá đạo).
Bình Định Vương Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phụng Đại Phu Thừa chỉ học sĩ Hàn Lâm Viện. Nguyễn Trãi đưa ra nhiều chiến lược, sách lược cho Lê Lợi. Nhờ có sự đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi mà lập nên được nhiều chiến thắng vẻ vang cho dân tộc.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự đại tài như chúng ta biết mà ông còn là nhà văn chính luận kiệt xuất với tác phẩm”bình ngô đại cáo” bất hủ. Tiếc thay, với những tài năng như vậy, đáng lẽ, Nguyễn Trãi được vua Lê trọng dụng và hoàn thành những hoài bão của mình, nhưng càng về sau, ông không được vua Lê trọng dụng nữa. Đau buồn trước cảnh ấy, Nguyễn Trãi đã cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn và dường như số phận trớ trêu khéo dùa cợt ông lần nữa, gia đình ông bị tru di tam tộc vì tội hại vua_một nỗi oan lớn của cả thời đại lúc bấy giờ. Thế nhưng, có lẽ trời đất không muốn một người tài đức như ông phải chịu một cái chết oan uổng đén vậy, nên đến thời vua Lê Thánh Tông, nỗi oan của ông được rửa sạch và được vua tặng câu “Úc Trai lòng sáng tựa sao khuê”
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự, nhà văn chính luận mà ông còn nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, để lại nhiều tác phẩm như: dư địa chí, Lam Sơn thực lục và ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho nền văn học chữ Nôm nước nhà qua tác phẩm “quân trung từ mệnh tập”, ngoài ra còn có tác phẩm “Côn Sơn ca” in trong tập “Ức Trai thi tập”
Qua những tác phẩm còn sót lại đến nay của Nguyễn Trãi, ta thấy thơ văn ông thấm đậm tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Tiêu biểu như “Quân trung từ mệnh tập” , là tập văn chiến có sức mạnh của 10 vạn quân. Sức mạnh ấy có được từ sự kết hợp tuyệt diệu giữa tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước và nghệ thuật viết văn luận chiến bậc thầy. “Bình Ngô đại cáo” là áng văn yêu nước lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về độc lập chủ quyền của dân tộc, bản cáo trạng tội ác kẻ thù, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và còn là sự hoà quyện giữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa với tư tưởng yêu nước. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi rất phong phú, đặc biệt đối với tình yêu quê hương gia đình. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên quê hương. Bắt đầu từ những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu nhưng lại chan chứa tình yêu thương: bè rau muống, lảnh mùng tơi, cây chuối, cây đa… đều trở thành vần điệu trong thơ Nguyễn Trãi, tạo nên những rung động tinh tế trong lòng người. Ông nói một cách trang trọng mà thật vui tươi, chân chất: “ao cạn vớt bèo cấy muống; trì thanh phát cỏ ương sen”, ông phát hiện ra một vẻ đẹp rất bất ngờ: đêm trăng gánh nước thì gánh luôn cả trăng đem về; bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại; thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc: “tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi”. Ông coi thiên nhiên như một người ban thân của mình, có lúc, ông như hoà mình vào thiên nhiên đến mức tưởng như dòng suối, tảng đá phủ rêu, tán trúc như hoà nhập với ông làm một.
Tiếp theo là niềm gắn bó tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm, ông phải lẩn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầu đêm thu, xa nhà bên ngọn đèn đêm khuya, ông day dứt như trong bài “đêm thu đất khách” ông tâm sự: Đêm khuya, bên ngon đèn leo lét, hồn mộng cứ vẩn vơ mãi nơi đất khách. Thanh minh đến theo tục, con cháu phải về thăm mồ mả ông bà, sửa sang bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm nay, ông không về được, ông chỉ não lòng: “thân mình xa ngàn dặm, mồ mả ông bà ở quê sao không giẫy cỏ thắp hương; 10 năm đã qua, những người ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai; đành mượn tạm chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê” (thanh minh_dịch nghĩa)
Chính vì có tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người nên Nguyễn Trãi sống một đời trong sạch, một lòng vì dân, vì nước. Khi trở về nông thôn, ông yên lòng và tự hào, ông coi cày cấy là một niềm vui: “một cày một cuốc thú nhà quê”. Những người dân lao động chân lấm tay bùn đáng được biết ơn: “ăn lộc, đền ơn kẻ cấy cày”. Cuộc sống Nguyễn Trãi giản dị, nghèo mà thanh, ông ca ngợi hình dáng, tính chất của tùng, chúc, mai, 3 cây không chịu khuất phục trước gía lạnh của mùa đông, giống như ông, một người luôn giữ tấm lòng trong sạch, một tấm “lòng thơm”. Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân, nó suốt đời sôi nổi, nó dự trên chân lí của tư tưỏng nhân nghĩa_một tư tưỏng cao đẹp xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa chính là trừ bạo, yên dân.
Nguyễn Trãi quả là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông chính là một vị anh hùng dân tộc, một nhà tư tưỏng, nhà thơ, nhà văn hoá lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như vua Lê Thánh Tông đã ca ngợi “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

Lazi.vn

6 tháng 6 2016
 
Lòng yêu nước trong tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.

Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đường ra trận. Hành trình đó có những lúc dãi dầu nắng mưa, có những ngày vượt suối băng đèo và có tiếng reo cười trong tình thân chan hòa đồng đội, trong một mái ấm gia đình giữa đất trời bao la. Kết cấu đó trước hết thể hiện qua số lượng chữ trong câu :

Mở đầu chặng đường hành quân là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ đầu dài ra 10 chữ và kết thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh bình thường của thơ vần nhịp. Nó là điệu nói : 

Không có kính không phải vì xe không có kính

Ba câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái đỉnh đạc với số lượng chữ rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8- 6- 6, bằng- bằng - trắc.

Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính sự thắng thế của thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc dù kết thúc của nó lại là thanh trắc. Chính thanh trắc này lại mở đường cho xe đi tới : Nhìn thẳng.

Năm khổ thơ tiếp theo, số lượng câu chữ trở lại bình thường, hoán đổi đều đặn ở hai kiểu kết hợp : 7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7 . Đường ra trận đẹp lắm, nên xe không kính cứ chạy bon bon, người lái xe đã nhìn thấy, nhìn thấy và thấy. Thấy gió xoa mắt đắng, thấy con đường chạy thẳng vào tim. Quan trọng nhất, thấy được nụ cười rạng rỡ của nhau. Ấy cũng chính là thấy được lòng dũng cảm tiềm ẩn đằng sau những câu đùa vui và hành động tếu táo : 

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lượng chữ trong câu thơ : 8- 8- 8- 8. Bốn câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn chữ cuối và trở lại kiểu phối âm bình thường bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của bài thơ mở rộng bằng thanh bằng :

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn thử thách ở phía trên kia chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, dù đường ra mặt trận có khi đồng nghĩa với cái chết thì người lính lái xe ra trận cũng luôn cảm thấy bình yên, an toàn bởi vì có một trái tim. Đó là trái tim biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chân lí, hòa bình. Hành trang ra trận cần biết bao một trái tim như thế. 

Bài thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam : Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Bài thơ không chứa đựng một ẩn ý sâu xa nào khiến người đọc phải suy luận, nêu giả thiết hoặc là thế này hoặc là thế kia. Tạo dựng hình ảnh thơ bằng ngôn ngữ thô mộc của đời sống thường nhật, không sử dụng các loại mĩ từ, mĩ cảm, ẩn dụ, hình ảnh thơ thể hiện đạt tới độ chân thực cao mà vẫn rất thơ, đó là tài nghệ của Phạm Tiến Duật trong lao động sáng tạo. Bài thơ có đầy đủ yếu tố cách tân và hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc của thơ ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của thơ ca cách mạng viết về anh bộ đội trong hai cuộc trường chinh cứu nước vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX
6 tháng 6 2016

Xin lỗi, mình k đọc kĩ đề là có 2 tác phẩm, bài này chuẩn hơn nè leuleu

Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm. Thế nhưng, những ký ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc, ký ức về những con người anh hùng trong một thời đại anh hùng thì vẫn tươi mới, nguyên vẹn mỗi khi ta đối diện từng trang sách trong những tác phẩm văn học của thời kỳ này. 

Bằng cảm hứng lãng mạn, kết hợp với khuynh hướng sử thi, văn học Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đã xây dựng trong văn thơ tượng đài những chiến sĩ anh hùng. Họ là những “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Chiến công của họ đẹp và phi thường như huyền thoại. 

Có hai tác phẩm được coi là tiêu biểu cho cảm hứng ngợi ca người chiến sĩ anh hùng của văn học thời kỳ này, đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Mỗi tác phẩm là một bức tranh đẹp về hình tượng người chiến sĩ điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. 

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969, rút từ tập thơ “Vầng trăng, quầng lửa” là một bài thơ độc đáo trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1969-1970. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện ngay trong tên gọi của bài thơ. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt. 

Khai thác đề tài chiến tranh, tác giả không chỉ tô đậm tính chất ác liệt, tàn khốc nhằm làm nổi bật sự phi thường của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mà Phạm Tiến Duật đã có cách nhìn, cách cảm khá mới lạ và thú vị. Từ trong sự tàn khốc ấy, chất thơ vẫn cứ tuôn trào ! 
Câu thơ mở đầu như một lời tự sự xen lẫn miêu tả: 

Không có kính không phải vì xe không có kính 
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Nó có tác dụng vừa lý giải sự bất thường của hình ảnh chiếc xe độc đáo “không có kính” vừa tô đậm sự ác liệt của chiến trường “bom giật, bom rung...” Đây là hình ảnh vừa lạ vừa chân thực. Lạ là vì trong thơ, người ta thường chọn những sự vật hoàn thiện, hoàn mỹ để miêu tả nhằm tạo thiện cảm với người cảm nhận nó. Với những chiếc xe cũng vậy! Phải sang trọng, bóng loáng chứ sao lại trần trụi, méo mó, biến dạng thế này ! 

Không có kính rồi xe không có đèn, 
Không có mui xe, thùng xe có xước

Nhưng đấy là sự thật. Không phải một chiếc như thế mà tác giả nhìn thấy cả một tiểu đội xe như thế! Bởi vì thời điểm mà bài thơ ra đời có thể nói là ác liệt nhất trong thập niên 60 của thế kỷ XX. 

Đường Trường Sơn - nơi vận chuyển vũ khí lương thực vào chi viện Miền Nam - những năm tháng này là “túi bom, chảo lửa”. Và trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ lái xe. Làm chủ những phương tiện ấy, người chiến sĩ không hề nản chí hay run sợ mà trái lại, lại bình tĩnh đến lạ thường: 

Ung dung buồng lái ta ngồi 
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát 2/2/2 diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Điệp từ “nhìn” gợi lên sự nối tiếp liên tục của những hình ảnh chiến trường như một đoạn phim đang quay chậm: 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng 
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim 
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim 
Như sa như ùa vào buồng lái

Các thủ pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ đã góp phần làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động. Tưởng rằng làm chủ những chiếc xe không kính, người chiến sĩ chỉ thấy những khó khăn chồng chất khó khăn. Nhưng không! Nó đã làm tăng những cảm giác mới mẻ mà chỉ có người chiến sĩ khi ngồi trên những chiếc xe như thế mới cảm nhận được một cách rõ ràng, mãnh liệt... Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim” tạo ấn tượng độc đáo. Chiếc xe như đang trôi bồng bềnh trong thiên nhiên hoang dã của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Chất thơ cùng với vẻ đẹp lãng mạn toát lên từ đó. Nhưng có thể nói đẹp nhất là thái độ, tinh thần dũng cảm bất chấp gian khổ để chiến đấu và chiến thắng: 

Không có kính, ừ thì có bụi, 
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc 
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

Vẻ đẹp được toát lên từ lời thơ giản dị, giàu “chất lính”, hình ảnh thơ mộc mạc. Điệp ngữ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một lời thách thức, chủ động chấp nhận gian khổ. Một giọng thơ tự tin, ngang tàng. Một tiếng cười “ha ha” hồn nhiên. Tất cả đã toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe. 

Đời sống chiến trường gian khổ là thế. Sự sống và cái chết ở đây chỉ là gang tấc. Thế nhưng tình yêu thương đồng chí, đồng đội vẫn tỏa sáng lạ thường. 

Những chiếc xe từ trong bom rơi 
Đã về đây họp thành tiểu đội 
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới 
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 

Có thể nói rằng, khai thác chất liệu nghệ thuật của đời sống chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã rất thành công trong việc khắc họa người chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng những hình ảnh, chi tiết vừa chân thực, gân guốc, mộc mạc vừa lãng mạn nên thơ. 

“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước: 
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

“Trái tim” ở đây chính là trái tim chứa chan tình yêu Tổ quốc đã giúp người chiến sĩ lái xe làm nên những kỳ tích phi thường. Vẻ đẹp hào hùng của họ tỏa sáng cả bài thơ; đủ làm sống lại trong lòng chúng ta một thời oanh liệt của anh bộ đội cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt tạo nên vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 

Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhà văn Lê Minh Khuê trong “Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong. 

Truyện viết về cuộc sống và chiến đấu vô cùng gian khổ của những nữ thanh niên xung phong - những cô gái “Ba sẵn sàng” trên tuyến đường Trường Sơn chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Mặc dù cốt truyện đơn giản, nhưng tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp người nữ chiến sĩ qua miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo và tinh tế. 

Nổi bật trong truyện là ba gương mặt đẹp của tổ trinh sát mặt đường. Họ có những nét tính cách chung của người nữ thanh niên xung phong Trường Sơn thời chống Mỹ nhưng ở mỗi nhân vật lại lấp lánh vẻ đẹp riêng. Hoàn cảnh sống và chiến đấu nơi tuyến lửa đã gắn bó họ thành một khối đoàn kết, yêu thương, gan dạ và dũng cảm.

Họ đóng quân trong một cái hang giữa trọng điểm “túi bom, chảo lửa” trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí bom rơi và phá những quả bom chưa nổ. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa nguy hiểm. Cái chết rình rập họ từng phút, từng giờ. “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang âm ỉ xa dần, thần kinh căng như chảo, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng chung quanh còn nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ...”. Họ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, dù chỉ có ba người (lại là ba phụ nữ); họ phân công nhau phá bằng hết những quả bom chưa nổ mà không cần đến sự trợ giúp của đơn vị “như mọi lần chúng tôi sẽ giải quyết hết”. 

Trong chiến đấu họ gan dạ, dũng cảm, quyết đoán là thế, nhưng trong cuộc sống họ là những cô gái trẻ trung, yêu đời, dễ rung cảm, lắm ước mơ. Là phụ nữ, họ rất thích cái đẹp và thích làm đẹp cho cuộc sống. 

Nếu như nhân vật Nho “mát mẻ như một que kem trắng”, thích ăn kẹo như một đứa trẻ, giàu mơ ước (Nho ước mơ trở thành công nhân nhà máy điện và trở thành cầu thủ bóng chuyền của nhà máy) thì nhân vật chị Thao lại dạn dày, từng trải trong cuộc sống; thích thêu thùa; thích làm đẹp “tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm” nhưng trong công việc thì “ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo” (dũng cảm, táo bạo nhưng lại sợ nhìn thấy máu chảy). 

Còn Phương Định, nhân vật chính của truyện là con người hồn nhiên, nhạy cảm, lãng mạn và mơ mộng. Là con gái Thủ đô, cô thường sống với kỷ niệm quê hương. Nơi ấy có một thời học sinh trong trắng, hồn nhiên, vô tư. Nơi ấy có mẹ, có căn gác nhỏ của cô... Những kỷ niệm yêu dấu ấy là liều thuốc tinh thần quý giá động viên cô, tiếp thêm sức mạnh để cô sống đẹp và chiến đấu anh dũng nơi tuyến lửa. 

Ở chiến trường, Phương Định luôn dành cho đồng đội tình yêu thương thắm thiết. Cô yêu quý đồng đội trong “tổ trinh sát mặt đường” của cô và cảm phục các anh bộ đội “những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Trong mắt cô, đó là những “người đẹp nhất, thông minh nhất”. Phương Định rất nhạy cảm. Cô biết mình có “cái nhìn sao mà xa xăm” như lời các anh lái xe nhận xét nhưng cô lại không biểu lộ tình cảm và thích kín đáo giữa đám đông. Cô thích nhạc và mê ca hát. Thậm chí tự đặt lời theo một điệu nhạc nào đó và hát để thấy mình rất buồn cười v.v... Thế nhưng với Phương Định, sự nhạy cảm về tâm hồn có lẽ được biểu hiện tinh tế nhất ở chỗ, chỉ một cơn mưa đá bất ngờ vụt qua trên cao điểm, cũng đủ đánh thức trong cô những ký ức về quê hương, gia đình, khơi dậy trong cô khát khao sum họp đến cháy bỏng. 

Một cô gái Hà Nội chính gốc, lãng mạn và mơ mộng như thế, nhưng trong chiến đấu lại dũng cảm, gan dạ đến tuyệt vời. Một mình phá bom trên đồi “quang cảnh vắng lặng đến dễ sợ” nhưng tinh thần cô không hề nao núng. Đáng lẽ cô phải “đi khom” nhưng sợ mấy anh chiến sĩ “có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt” nhìn thấy, nên cô “cứ đàng hoàng mà bước tới”. 

Khi ở bên quả bom, tử thần có thể cướp đi mạng sống của cô bất cứ lúc nào, nhưng cô vẫn bình tĩnh thao tác một cách chính xác và chạy đua với thời gian để vượt qua cái chết. 

“Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Những cảm giác tinh tế ấy không chỉ là sự nhạy cảm mà còn là kinh nghiệm của sau bao nhiêu lần phá bom ở tuyến lửa và chỉ những người nữ thanh niên xung phong dạn dày như Phương Định, Nho, chị Thao mới có được ! 

Với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lý nhân vật; làm hiện lên một thế giới nội tâm rất phong phú nhưng không phức tạp, rất đời thường, giản dị nhưng vô cùng trong sáng và cao thượng của những nữ thanh niên xung phong. 

Vẻ đẹp của những “cô gái mở đường” Trường Sơn cùng với vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe trong các tác phẩm văn học chống Mỹ nói chung và trong các tác phẩm của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê nói riêng đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý chí, tâm hồn và nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.