K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 4 2021

Bạn tham khảo nha! Nguồn là của Wikipedia1945

- Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2 triệu người (trong dân số 23 triệu).

- 9 tháng 3: Nhật Bản nổ súng lật đổ Pháp trên toàn Đông Dương. Thời kỳ Pháp thuộc kết thúc. Bảo Đại tuyên bố hủy hiệp định của nhà Nguyễn với Pháp. Nhật Bản hỗ trợ Bảo Đại thành lập Đế quốc Việt Nam, nhưng chính phủ này bị Nhật Bản khống chế chặt chẽ.

- 11 tháng 3: Khởi nghĩa Ba Tơ tại Quảng Ngãi.

- 12 tháng 3: Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" phát động cao trào kháng Nhật.

- 11 tháng 3 - 23 tháng 8: Sự tồn tại ngắn ngủi của chính phủ Đế quốc Việt Nam do Nhật lập nên.

- 8 tháng 5: Kết thúc Thế chiến lần thứ 2. Theo thỏa thuận, quân Quốc dân Đảng Trung Quốc sẽ vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh sẽ vào miền Nam Việt Nam (ranh giới là vĩ tuyến 17) để tước vũ khí quân Nhật.

- 16 tháng 8: Đại hội quốc dân tại Tân Trào thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng (Chính phủ Cách mạng lâm thời) do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

- 19 tháng 8: Việt Minh tổ chức Cách mạng tháng Tám thành công tại Hà Nội và lan ra cả nước.

- 22 tháng 8: Việt Minh tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại Huế, gửi công điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị.

- 30 tháng 8: Bảo Đại chấp nhận thoái vị.

- 25 tháng 8: Việt Minh tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại Sài Gòn.

- 2 tháng 9: Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Hà Nội. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

- 8 tháng 9: Phòng trào Bình dân học vụ được phát động. 1 năm sau đã có 2,5 triệu người Việt Nam được xóa nạn mù chữ.

- 23 tháng 9: Quân Pháp quay trở lại miền Nam, xung đột vũ trang với Việt Minh và các lực lượng bản xứ khác, chiếm quyền kiểm soát nhờ sự giúp đỡ của quân Anh. Ngày Nam Bộ kháng chiến.

1946

- tháng 1: Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam thành lập trên cơ sở cải tổ từ Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

6 tháng 1: Bầu cử Quốc hội khóa 1 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2 tháng 3: Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập dựa trên kết quả của kỳ họp thứ I Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

26 tháng 3: Pháp thành lập Nam Kỳ quốc, tách miền Nam Việt Nam thành quốc gia riêng thuộc Liên hiệp Pháp.

6 tháng 3: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp ký Hiệp định sơ bộ cho 15.000 quân Pháp ra Bắc thay thế cho quân của Tưởng Giới Thạch. Việt Nam loại trừ được nguy cơ của 20 vạn quân Trung Hoa chiếm đóng.

12 tháng 7: Vụ án Ôn Như Hầu, âm mưu của Việt Nam Quốc dân Đảng nhằm lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị phá vỡ.

14 tháng 9: Hồ Chí Minh và đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp J. Sainteny ký Tạm ước (Modus Vivendi).

23 tháng 11: Pháp đánh phá và chiếm đóng Hải Phòng làm 6000 thường dân thiệt mạng. Hồ Chí Minh kêu gọi lần cuối sự ủng hộ của Mỹ.

19 tháng 12: Hồ Chủ tịch phát động Toàn quốc kháng chiến. Kháng chiến chống Pháp bắt đầu.

19 tháng 12 - 18 tháng 2 năm 1947: Trận đánh tại Hà Nội mở màn chiến tranh Đông Dương, Việt Minh cầm chân Pháp tại Hà Nội tạo thời gian để lực lượng lớn rút ra ngoài và chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.

1947 

tháng 10 - 22 tháng 12: Chiến dịch Léa - Pháp vây Chiến khu Việt Bắc của Việt Minh.

19 tháng 12: cuộc chiến đấu giữa Việt Minh và quân Pháp đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc.

1948

- tháng 6: Hiệp định Vịnh Hạ Long, Pháp đồng ý thành lập Quốc gia Việt Nam gồm cả ba miền Bắc Trung Nam, nằm trong Liên hiệp Pháp.

1949

- tháng 3, Hiệp ước Elysée, Pháp công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam.

- 22 tháng 5: Quốc hội Pháp chính thức bỏ phiếu thông qua việc trao Nam Bộ cho chính phủ Quốc gia Việt Nam.

- Tháng 7: Pháp thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam

1950

- Tháng 1: Trung Quốc và Liên Xô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

- Tháng 2: Mỹ và Anh công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam

- 8 tháng 5: Mỹ bắt đầu can thiệp quân sự vào Việt Nam khi tổng thống Harry Truman duyệt 15 triệu đô-la viện trợ quân sự cho Pháp. Cố vấn quân sự Mỹ sẽ đi theo dòng xe tăng, máy bay, pháo, và các hàng hóa khác vào Việt Nam. Trong 4 năm sau, Mỹ sẽ tiêu 3 tỷ đô-la cho cuộc chiến của người Pháp và đến năm 1954 sẽ cung cấp 80% hàng hóa chiến tranh mà quân Pháp sử dụng.

- 16 tháng 9 - 17 tháng 10: Chiến dịch Biên giới. Việt Minh phá thế cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông biên giới để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ từ Trung Quốc, bắt đầu chuyển sang thế chủ động.

- 22 tháng 12: Bom napan được sử dụng lần đầu tại Việt Nam để chống lại quân Việt Minh tại Tiên Yên.

1953

- 20 tháng 11: Quân Pháp bắt đầu xây dựng căn cứ tại Điện Biên Phủ

- 19 tháng 12: "Luật cải cách ruộng đất" được Hồ Chủ tịch phê chuẩn và chính thức ban hành. Chương trình cải cách ruộng đất tại miền Bắc bắt đầu.

1954

- 13 tháng 3: Trận Điện Biên Phủ mở màn.

7 tháng 5: Điện Biên Phủ thất thủ. Hơn 10.000 quân Pháp ra hàng, Pháp mất lợi thế đàm phán tại Geneve.

8 tháng 5: Hiệp định Geneve chia Việt Nam thành 2 khu vực quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17

7 tháng 7: Ngô Đình Diệm được chọn làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam

21 tháng 7: Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được ký kết.

Tháng 8-1954 đến tháng 5-1955: Cuộc di cư Việt Nam

1954

8 tháng 9: Liên minh SEATO được lập ra nhằm mục đích ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.

10 tháng 10: Pháp rút, Việt Minh tiếp quản Thủ đô Hà Nội sau 9 năm kháng chiến.

1 tháng 10 2021

Giai đoạn 1:ý nghĩa :tới giữa những năm 60 của thế kỉ XX hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã cơ bản sụp đổ 

Giai đoạn 2 :ý nghĩa : cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước này bùng nổ ,ách thống trị của thực dân Bồ Đào Nha bị lật đổ lần lượt ở Ghi-nê Bít-xao (1974),Ăng-gô-la ,Mô-dăm-bích (1975)

Giai đoạn 3:ý nghĩa :hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã sụp đổ hoàn toàn 

17 tháng 2 2022

Tham khảo:

Phong trào đã diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức, tấn công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa... trên khắp các thành phố, thôn quê, và miền núi. Việt Minh thực hiện khởi nghĩa chống Nhật từng phần, mở rộng căn cứ địa, làm tiền đề tiến lên Tổng khởi nghĩa. Phong trào đã chiếm giữ được nhiều vùng rộng lớn từ tay Nhật, hình thành nhiều vùng căn cứ cộng sản, trong đó Khu Giải phóng Việt Bắc – bao gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, và một số vùng ở Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái – là rộng lớn nhất, và là căn cứ địa chính của toàn quốc.

Quân đội Nhật đã mạnh bạo mở các cuộc càn quét, tấn công vào các vùng Việt Minh. Quân Việt Minh, các đội dân quân - tự vệ, du kích xã đã chống trả quyết liệt, bảo vệ căn cứ địa, tiêu biểu là các trận đánh bảo vệ chiến khu Vần, chiến khu Hiền Lương, và chiến khu Trần Hưng Đạo. Tại các đô thị, các phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt động sôi nổi trên cả nước.[1]

Nổi dậy từng phần[sửa | sửa mã nguồn]

Tại chiến khu Việt Bắc, liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng quyết định nổi dậy cướp chính quyền ở những nơi đã đủ điều kiện. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy. Hàng loạt các xã, tỉnh, châu thuộc các vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị Việt Minh chiếm giữ.

Tại Bắc Giang, nhiều xã thuộc vùng Thượng Yên Thế, Hữu Lũng, Bố Hạ, Hòa Hiệp v.v., quần chúng nổi dậy biểu tình thị uy vũ trang, lập Ủy ban giải phóng. Việt Minh huy động hàng ngàn quần chúng kéo đi cướp vũ khí của lính đồn, nhiều tri huyện, tri phủ phải bỏ chạy. Toàn bộ huyện Hiệp Hòa, một phần Yên Thế, Phú Bình đều do quân nổi dậy kiểm soát.

Tại Bắc Ninh, sau đêm Nhật đảo chính Pháp, chi bộ Đảng của xã Trung Màu (Tiên Du) lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa lập chính quyền ở 2 xã Trung Màu và Dương Hút. Trong tình hình đó, tỉnh ủy Bắc Ninh chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền đưa phong trào quần chúng tiến lên. Do đó, chỉ trong tháng 3 và tháng 4, số hội viên Việt Minh trong tỉnh đã tăng lên hàng vạn người.

Tại Hưng Yên, đêm 11/3/1945, đội dân quân - tự vệ và du kích địa phương đã đánh đồn Bần Yên Nhân, cướp được toàn bộ vũ khí.

Hàng ngàn đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh đang bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột, Hội An (Quảng Nam)... nhân cơ hội Nhật-Pháp bắn nhau và tình hình hỗn loạn đã đấu tranh đòi tự do, hoặc nổi dậy phá nhà lao, vượt ngục ra ngoài hoạt động.

Tại Quảng Ngãi, ngày 11/3/1945, những đảng viên, cán bộ cộng sản đang bị giam trong trại tập trung Ba Tơ, khi nghe tin Nhật đảo chính Pháp, đã phá trại giam, cướp súng, thành lập đội du kích Ba Tơ. Đây là đội du kích đầu tiên của miền Trung do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, lãnh đạo, trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc nổi dậy giành chính quyền ở Quảng Ngãi và các tỉnh khác.

Tại Nam Kỳ, trong tháng 3 và tháng 4, chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chưa đến được, nhưng một số địa phương có phong trào mạnh từ trước cũng có những hình thức đấu tranh chống lại nhiều quận trưởng, tỉnh trưởng, như ở Mỹ Tho.

Phá kho thóc cứu đói[sửa | sửa mã nguồn]

Khi phong trào khởi nghĩa từng phần lên cao, cũng là lúc Bắc Kỳ, Bắc Trung Kỳ, diễn ra nạn đói trầm trọng do chính sách vơ vét, tích trữ lương thực của Nhật và Pháp. Để giải quyết nạn đói và thúc đẩy phong trào đi lên, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương quyết định tiến hành phá kho thóc, giải quyết nạn đói.

Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật, Pháp; thu hàng ngàn tấn thóc chia cho nông dân. Tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, hàng chục kho thóc bị phá. Tại Phú Thọ trong một thời gian ngắn có 14 kho thóc bị phá.

Tại Ninh Bình, ngày 15/3 quần chúng các huyện Nho Quan, Gia Viễn đã phá 12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc chia cho dân nghèo. Tại Thái Bình, trong tháng 3 và tháng 4, nhân dân các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền Hải, Vũ Tiên, Tiên Hưng đã thu 1.000 tấn thóc chia cho dân.

Tại Hải Dương, nhân dân phá 39 kho thóc và lấy 43 thuyền gạo với 2.000 tấn. Riêng các huyện phía Nam đã phá 26 kho thóc, thu 26 thuyền với >1.000 tấn gạo. Tại Hưng Yên, Hòn Gai, Hà Đông, Sơn Tây, người dân phá kho thóc, gạo của Nhật.

Tại ngoại thành Hà Nội, người dân tiến hành phá các kho thóc, gạo của Nhật ở phố Bắc Ninh, phố Lê Lợi, phố Phà Đen, thu hàng trăm tấn. Tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn ra nhiều cuộc phá kho thóc, cứu đói.

Phong trào phá kho thóc, cứu đói dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương là 1 trong những hình thức tập dượt quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Đấu tranh ở thành thị và các khu công nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Trong phong trào phá kho thóc, công nhân và dân nghèo Hà Nội cũng đi phá các kho thóc của Nhật. Công nhân bến cảng Hải Phòng bí mật đốt phá các kho lương thực ở bến Sáu Kho, cho đồng bào vào lấy gạo. Công nhân mỏ Đông Triều chặn bắt tàu thuyền chở gạo của người Nhật, công nhân Sài Gòn quyên góp gạo, tiền gửi ra Bắc giúp đồng bào cứu đói.

Phong trào công nhân đấu tranh tiến lên hình thức cao hơn, như phá hoại kế hoạch của Nhật, tự tạo vũ khí, cướp súng, đạn của Nhật cung cấp cho bộ đội du kích ở các chiến khu. Công nhân Hà Nội tổ chức cướp súng của Nhật ở Phà Đen, Ngọc Hà. Tại Quảng Yên, công nhân khởi nghĩa chiếm mỏ Mạo Khê, Tràng Bạch, Uông Bí. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn, công nhân tuyên truyền gây thanh thế cho Việt Minh. Nhiều hoạt động treo cờ diễn thuyết ở chỗ đông người, các rạp hát, trường học, ngã 3 đường trên tàu điện đã diễn ra ở Hà Nội. Tại đây, học sinh và thanh niên bất hợp tác với Nhật, không học tiếng Nhật, tổ chức những cuộc mít tinh, tuyên truyền tinh thần yêu nước tại Mễ Trì, chợ Canh, Chợ Láng. Thanh niên tổ chức tuyên truyền xung phong tại các trường Gia Long, Kỹ nghệ thực hành. Đông đảo giáo viên, học sinh đã hưởng ứng phong trào Việt Minh.

Tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, từ tháng 5/1945 xuất hiện phong trào Thanh niên Tiền phong. Dưới hình thức hoạt động công khai hợp pháp, tổ chức, tập hợp, rèn luyện quần chúng yêu nước, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa. Chỉ vài tháng sau, ở Sài Gòn và miền Nam Việt Nam có hàng vạn người tham gia tổ chức Thanh niên tiền phong. Đến ngày 22/8/1945, Đoàn Thanh niên Tiền phong ra tuyên bố đứng trong Mặt trận Việt Minh và trở thành 1 lực lượng quan trọng của Việt Minh trong những ngày khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở Sài Gòn và miền Nam Việt Nam.

Nhận định
14 tháng 10 2023

Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 1954 đến 1975 có nhiều yếu tố quan trọng:

1. Đoàn kết dân tộc: Cuộc kháng chiến được xây dựng trên sự đoàn kết rộng rãi của toàn dân Việt Nam từ các tầng lớp và tôn giáo khác nhau. Sự đoàn kết này đã tạo nên một sức mạnh vững chắc và nhất quán trong việc chống lại cuộc xâm lược của Mỹ.

2. Chiến lược địa phương và mạnh dạn trong chiến đấu: Bộ Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã áp dụng chiến thuật chiến đấu địa phương, tận dụng triệt để sự quen thuộc với địa hình, sự hiểu biết về dân chủng và văn hóa của quần chúng để làm suy yếu và tiêu diệt lực lượng xâm lược.

3. Hỗ trợ quốc tế và ngôi sao may mắn: Chính sách ngoại giao thông minh của Việt Nam và sự hỗ trợ từ các quốc gia bạn đã đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến. Sự ủng hộ từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đã giúp Việt Nam có được nguồn lực cần thiết để tiếp tục cuộc chiến.

4. Chiến lược đối đầu kinh tế: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng áp dụng một chiến lược đối đầu kinh tế, với việc tạo ra sự cô lập kinh tế và tài chính đối với Mỹ. Sự khắc phục khéo léo sau khi các căn cứ của Mỹ bị tấn công đã gây áp lực và giới hạn tài nguyên của Mỹ.

5. Ý chí và lòng yêu nước cao cả: Người dân Việt Nam đã có ý chí chiến đấu kiên cường và lòng yêu nước cao cả, sẵn sàng hy sinh vì độc lập và tự do của đất nước. Tình yêu quê hương và lòng tự hào dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần không thể đo lường được trong cuộc chiến.

Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước rất to lớn:

1. Thành công trong cuộc kháng chiến này đã chứng minh cho thế giới thấy sự quyết tâm và sức mạnh của một dân tộc nhỏ bé, đồng thời làm lan tỏa ý thức đấu tranh cho độc lập và tự do trong các nước khác.

2. Cuộc kháng chiến đã đánh dấu sự thất bại và rút lui của Mỹ khỏi Việt Nam, gửi một thông điệp mạnh mẽ về sự không thể chiến thắng của một quốc gia cường quốc trước ý chí và sự kiên nhẫn của dân tộc.

3. Cuộc kháng chiến đã thúc đẩy sự thay đổi toàn diện trong cả nước, đẩy mạnh quá tr

15 tháng 11 2021

C

15 tháng 11 2021

C

8 tháng 8 2019

Các cải cách mà lực lượng Đồng minh đã thực hiện ở Nhật Bản giai đoạn 1945-1951 đã thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa quân phiệt, dân chủ hóa đời sống kinh tế - chính trị, tạo điều kiện để nền kinh tế Nhật Bản cất cánh ở giai đoạn sau.

Đáp án cần chọn là: B

13 tháng 2 2022

TK

Từ khởi nghĩa Bắc Sơn

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), nhân dân đã nổi dậy chặn đánh tân binh Pháp tháo chạy về Thái Nguyên qua Bắc Sơn, đánh chiếm đồn Mỏ Nhài[1]. Xét về diện tích địa bàn có khởi nghĩa thì khởi nghĩa Bắc Sơn không rộng, nhưng xét về độ ảnh hưởng tích cực cho cuộc vận động cách mạng năm 1945 thì phải thừa nhận sức lan tỏa lớn của cuộc khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng 11 năm 1940) đã nhận định rằng “khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra đúng lúc”. Lời nhận xét đó có ý nghĩa rằng sau khi Nhật bắt đầu vào Đông Dương, quân Pháp tháo chạy ở Lạng Sơn thì ở Bắc Sơn đã có điều kiện khởi nghĩa từng phần trong điều kiện có thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi Pháp quay trở lại hay Nhật đang vào.

Ngày 16 tháng 10 năm 1940, đồng chí Trần Đăng Ninh sau khi được Xứ ủy Bắc Kỳ cử lên Bắc Sơn chỉ đạo cuộc khởi nghĩa đã ra chỉ thị thành lập đội du kích Bắc Sơn với 5 trung đội vũ trang, duy trì lực lượng để hoạt động chính trị là thượng sách[2]. Nhận định về cuộc khỏi nghĩa Bắc Sơn, đồng chí Trường Chinh đã nói: “Ưu điểm lớn nhất của nhân dân Bắc Sơn là đã kịp nổi dậy giành chính quyền khi quân đội phát xít Nhật xâm lược Lạng Sơn và hàng ngũ quân Pháp cùng bè lũ tay sai đã hoang mang, dao động đến cực điểm”[3].

     Thời gian  Địa điểm Lãnh đạo Lực lượng Kết quả 
 Bắc Sơn - Tháng 9/1940.- Bắc Sơn- Đảng bộ và Nhân dân huyện Bắc Sơn- Lực lượng khởi nghĩa khoảng 600 người gồm: tự vệ, quần chúng các dân tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh- Thất bại
 Nam Kì - Tháng 11/1940.- Khởi nghĩa nổ ra từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ.- Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ- Chủ yếu là nhân dân Nam kì không rõ quân số.- Thất bại