Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong cuộc chiến đấu chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thắng lợi chung quan trọng trên nhiều mặt trận quân sự và chính trị:
- Thắng lợi quân sự: Quân đội Việt Nam đã đối mặt với một quân đội mạnh mẽ của Hoa Kỳ và các đồng minh, nhưng vẫn giữ vững sức mạnh và tri thức quân sự. Các trận đánh quyết định như trận Điện Biên Phủ đã chứng minh sự kiên nhẫn và quyết tâm của quân và dân Việt Nam.
- Thăng trầm tinh thần của quân địch: Cuộc chiến đã làm cho quân đội Mỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc duy trì tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Sự phản đối chiến tranh tại Mỹ và các nước đồng minh đã tạo áp lực lên chính phủ Mỹ.
- Hợp tác quốc tế: Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác quốc tế và được sự ủng hộ của nhiều quốc gia trong cuộc chiến đấu chống lại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh.
- Chính trị ngoại giao: Sự thăng trầm của cuộc chiến đã tạo điều kiện cho cuộc thương lượng và đàm phán. Hiệp định Paris năm 1973 dẫn đến cuộc ngừng bắn và rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam.
- Tinh thần chiến đấu và đoàn kết của nhân dân: Nhân dân Việt Nam đã phải chịu nhiều khó khăn, nhưng họ đã duy trì tinh thần chiến đấu và đoàn kết trong cuộc chiến tranh.
- Sự hậu thuẫn của Trung Quốc và Liên Xô: Trung Quốc và Liên Xô đã cung cấp hỗ trợ quân sự và chính trị quan trọng cho Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống lại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh.
-> Những thắng lợi này cùng với sự kiên nhẫn và quyết tâm của nhân dân Việt Nam đã đóng góp vào sự kết thúc của cuộc chiến và độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc chiến này cũng đã để lại nhiều hậu quả và thiệt hại lớn đối với cả hai bên tham chiến và vùng Đông Dương nói riêng.
refer (hơi dài)
I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MĨ Ở MIỀN NAM (1965-1968) 1. Chiến lược : "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở Miền Nam Nhằm thay cho chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đã bị phá sản ở miền Nam, đế quốc Mĩ tiến hành "Chiến tranh cục bộ". * Thủ đoạn của Mỹ: Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" là hình thức chiến tranh xâm lược của Mĩ ở miền Nam được tiến hành bằng: - Lực lượng quân Mỹ, quân đồng minh,quân Sài gòn. Quân Mỹ giữ vai trò quan trọng. - Quân Mỹ hành quân “tìm diệt” đánh vào căn cứ quân giải phóng . - Mở 2 cuộc phản công vào mùa khô 1965-1966; 1966-1967 bằng các cuộc hành quân “tìm diệt “ và “bình định”. - Mở ngay cuộc hành quân vào căn cứ của quân giải phóng Vạn Tường (Quảng Ngãi).
* Quân dân miền Nam chiến thắng ở Mùa khô thứ nhất 1965-1966: + Mỹ mở 5 cuộc hành quân “tìm diệt” vào Khu V và miền Đông Nam Bộ để đánh bại quân giải phóng . + Quân dân ta đánh địch trên mọi hướng, tiến công chúng trên khắp mọi nơi. * Quân dân miền Nam chiến thắng ở Mùa khô thứ hai 1966-1967 : + Mỹ , quân đội Sài gòn và đồng minh: mở 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định “nhắm vào miền Đông Nam Bộ, lớn nhất là cuộc hành quân Gian Xơn Xi ti, nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của ta + Quân dân ta phản công đánh bại ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt “ và “bình định” của Mỹ, lớn nhất là cuộc hành quân Gian Xơn Xi ti Kết quả : Sau hai mùa khô, ta loại 24 vạn tên địch, bắn rơi và phá hủy hơn 2.700 máy bay, phá hủy hơn 2.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3.400 ô tô.
Tại nông thôn và thành thị : + Diệt bọn ác ôn, phá “ấp chiến lược”, đòi Mỹ rút về nước , đòi tự do dân chủ . + Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
trên đây là phần ctr cục bộ
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) * Hoàn cảnh lịch sử : 1968 so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, ta lợi dụng mâu thuẫn trong năm bầu cử Tổng Thống Mỹ. * Mục tiêu : -Tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, quân đồng minh, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền . -Buộc Mỹ phải đàm phán và rút quân về nước. * Diễn biến : - Đêm 30 rạng 31-1-1968 ta tấn công vào các đô thị ở miền Nam . -Tại Sài gòn quân ta tấn công vào tòa Đại Sứ Mỹ, Dinh Độc lập, bộ Tổng tham mưu, sân bay Sài gòn của địch
. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của Mỹ: Việt Nam hóa – Đông Dương hóa chiến tranh
Ngày 6-6-1969 Chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập,được 23 nước công nhận . -Từ 1969 ,thực hiện di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh cả nước đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ cứu nước . - Ngày 24 và 25-4-1970 , Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước đoàn kết chống Mỹ họp . - Ta và Cam-pu-chia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam pu chia của Mỹ và quân đội Sài gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn . - 3-1971 Việt Nam và Lào , đập tan cuộc hành quân”Lam Sơn -719” chiếm giữ đường 9 –Nam Lào của Mỹ và quân đội Sai gòn . - Phong trào của nhân dân nổ ra liên tục , rầm rộ ở Sài gòn , Huế ,Đà Nẵng . - Tại các vùng nông thôn , đồng bằng quần chúng phá “ấp chiến lược”, chống “Bình định” của địch .
. Cuộc tiến công chiến lược 1972: a. Hòan cảnh :Phát huy các thắng lợi trên các mặt trận quân sự , chính trị ngoại giao , trong 2 năm 1970-1971 b. Diễn biến : + Mở dầu ta đánh Quảng Trị (30-3-1972). + Phát triển khắp miền Nam năm 1972 . Chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh nhất Quảng Trị , Tây Nguyên, Đông Nam Bộ . c. Kết quả: + Ta loại khỏi vòng chiến 20 vạn quân ngụy . + Giải phóng vùng đất đai rộng lớn ,1 triệu dân . d. Ý nghĩa : + Giáng đòn mạnh vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". + Buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược. + Thừa nhận "Việt Nam hóa chiến tranh" thất bại .
  Hoàn cảnh và Diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam /Lịch sử /Hoàn cảnh và Diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam   Chiến tranh đơn phương diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều điều đặc biệt. Vậy cụ thể âm mưu và diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam diễn ra như thế nào? Nếu bạn cũng đang quan tâm đến vấn đề này thì hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu chi tiết hơn trong bài viết sau đây nhé! Nội dung chính bài viết Hoàn cảnh của chiến tranh đơn phương Chiến tranh đơn phương diễn ra trong hoàn cảnh Pháp gặp thất bại, Mỹ trực tiếp can thiệp vào tình hình Việt Nam. Vào tháng 7/11/1954, Mỹ cử tướng Cô – Lin chính thức sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam. Thực tế, tướng Cô – Lin sang Việt Nam mang theo âm mưu biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Từ đó, chúng sẽ làm bàn đạp để tiến hành kế hoạch tấn công ra miền Bắc và đồng thời ngăn chặn làn sóng cách mạng đang diễn ra ở Đông Nam Á. Cùng lúc đó, dựa vào thế lực của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng dựng lên một chính quyền độc tài nhằm chống phá cách mạng nước ta một cách trắng trợn. Vì thế, đến giữa năm 1954, Diệm đã lập ra đảng có tên là Cần Lao nhân vị làm đảng cầm quyền. Tiếp đó, đến cuối năm 1954, tiếp tục thành lập “phong trào cách mạng quốc gia” và đưa ra mục tiêu hoạt động đó là “chống cộng, đả thực, bài phong”. Âm mưu chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam Chiến lược chiến tranh đơn phương được diễn ra từ năm 1954 cho đến năm 1960 với âm mưu đó là tìm diệt các cán bộ và cơ sở cách mạng của ta ở miền Nam.Tuy nhiên, âm mưu chính của cuộc chiến tranh này đó là muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Sau đó sẽ dùng nó để làm bàn đạp tiến công trực tiếp ra miền Bắc với mục đích ngăn chặn làn sóng cách mạng XHCN đang bùng nổ ở Đông Nam Á. Do vậy, cuộc chiến này được diễn ra trong tình hình vô cùng bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn của Diệm trong cuộc chiến tranh Bắt đầu chiến lược chiến tranh đơn phương, Diệm đã ra sắc lệnh “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”. Kể từ đó, đến tháng 5/1959, Diệm ra đạo luật 10/59 và lê máy chém đi khắp miền Nam và giết hại hàng loạt người dân vô tội. Bên cạnh đó, với chiến lược này, chính quyền Diệm còn thực hiện chương trình cải cách điền địa với mục đích lấy lại ruộng đất mà trước đó cách mạng đã giao cho nhân dân. Chúng lấy lại ruột đất này nhằm phục vụ cho việc lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp nhân dân ta đến mức tột cùng. Từ đó, khiến cho nhân dân ta buộc phải tách hoàn toàn khỏi mối liên hệ với cách mạng, giúp chúng dễ dàng thực hiện chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam. Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong cuộc chiến tranh đơn phương Diễn biến của chiến lược chiến tranh đơn phương Chiến lược của chiến tranh đơn phương từ năm 1955 – 1960 được Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn và thực hiện kế hoạch thành lập đoàn cố vấn quân sự. Đoàn cố vấn này có nhiệm vụ đó là giúp Ngô Đình Diệm tiến hành cuộc “chiến tranh đơn phương” (hay còn gọi là “chiến tranh vành đai) của tổng thống Mỹ vô cùng tàn bào và độc ác. Trong thời điểm đó, Trung ương ta vẫn chưa đưa ra chủ trương chuyển hướng đấu tranh. Vì vậy, cán bộ, Đảng viên cũng như đồng bào ta ở miền Nam vẫn chống chiến tranh đơn phương bằng hình thức đấu tranh chính trị và không dám dùng vũ trang để tự vệ. Đứng trước tình hình đó, nhân dân ta ở miền Nam phải sống trong cảnh nghẹt thở. Đồng thời, cách mạng miền Nam dần bị đẩy vào thế bế tắc chưa từng thấy. Trước tình hình chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam bắt đầu diễn ra, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị lúc bấy giờ đang hoạt động tại miền Nam đã nhận thấy rõ ngụy quyền miền Nam được Mỹ hỗ trợ. Vì vậy, chúng điên cuồng đàn áp, tàn phá và xóa bỏ phong trào cách mạng miền Nam. Do đó, mục tiêu chống cuộc chiến này lúc bấy giờ đó chính là “phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ – Diệm”. Đó cũng chính là tư duy mới của đồng chí Lê Duẩn được đưa ra trong “Đề cương cách mạng miền Nam”. Tài liệu mà đồng chí Lê Duẩn đưa ra đã góp phần lớn soi sáng cho Đảng viên cũng như các bộ và nhân dân miền Nam con đường đấu tranh chống chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam. Đồng thời, đồng chí Lê Duẩn còn xác định đây là con đường đấu tranh đầy gian khổ, ác liệt nhưng đóng góp không nhỏ trong việc nêu lên những luận điểm cơ bản để xây dựng đường lối cách mạng miền Nam. Cụ thể đó là”Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Cùng với đó, để chống chiến tranh đơn phương của Mỹ – Diệm, Nghị quyết 15 đã đáp ứng nguyện vọng bức thiết của mọi tầng lớp quần chúng cách mạng. Đặc biệt, nó đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cách mạng của toàn dân, góp phần tạo nên những chuyển biến căn bản và nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam nước ta trong suốt một thời gian từ năm 1959 – 1960. Trong đó, đỉnh cao phải kể đến phong trào Đồng khởi trong cuộc chiến đấu chống lại chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam.
Đáp án C
Trong chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”, quân đội Sài Gòn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Campuchia và tăng cường chiến tranh ở Lào, thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”. Đây là biện pháp của Mĩ thực hiện nhằm chia rẽ khối đoàn kết của ba nước Đông Dương.
Đáp án A
Ngày 7-2-1965, Mĩ chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất trong khi đang thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam (1961-1965)
1. Trên mặt trận chống phá “bình định”
- Năm 1962, Quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét vào chiến khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh,…
- Cuộc đấu tranh chống và phá “ấp chiến lược” diễn ra gay go quyết liệt giữa ta và địch. Đến cuối 1962 trên nửa tổng số ấp và 70% nông dân vẫn do cách mạng kiểm soát.
- Đến giữa năm 1965, chỉ còn kiểm soát 2.200 ấp.
2. Trên mặt trận đấu tranh chính trị
- Diễn ra sôi nổi ở các đô thị lớn như: Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn.
- Ngày 11 - 6 - 1963, trên đường phố Sài Gòn, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm.
- Ngày 16 - 6 - 1963, 70 vạn quần chúng Sài Gòn biểu tình làm rung chuyển chế độ Sài Gòn.
- Ngày 1 - 11 - 1963, Mĩ làm đảo chính lật đổ chế độ Diệm - Nhu với hy vọng ổn định tình hình.
3. Trên mặt trận quân sự
- Ngày 2 - 1 - 1963, quân dân ta giành thắng lợi vang dội ở trận Ấp Bắc (Mỹ Tho), đánh bại cuộc hành quân càn quét của hơn 2.000 quân đội Sài Gòn có cố vấn Mĩ chỉ huy. Sau trận Ấp Bắc, khắp miền Nam đã dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
- Lực lượng quân giải phóng liên tiếp mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đông - Xuân 1964 - 1965 trên các chiến trường miền Nam và miền Trung.
⟹ Với những chiến thắng dồn dập, quân dân ta ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
C1:
- Cuối năm 1974 – đầu năm 1975, nhận thấy so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi có lợi cho cách mạng, Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.
- Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
- Bộ Chính trị cũng phân tích rõ sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa,… giảm bớt sự tàn phá cua chiến tranh.
Quan hệ giữa 3 nước Đông Dương với tổ chức ASEAN được cải thiện rõ rệt từ sau sự kiện nào?
A. Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á được kí kết (2/1976).
B. Mĩ rút quân khỏi Việt Nam (1973).
C. Pháp rút quân khỏi Việt Nam (1954).
D. Chiến tranh lạnh kết thúc (1989).
Đáp án A
Máu đọng chưa khô lại đầy/Hỡi miền Nam trăm đắng ngàn cay“. Hai câu thơ này là hình ảnh của miền Nam Việt Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thực hiện chính sách tố cộng, diệt công của Mĩ – Diệm thực hiện từ sau năm 1954 đến năm 1960.