Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Triển khai vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp:
* Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Từ nội dung đoạn thơ: Lời dặn con của người cha phải biết giúp đỡ và tôn trọng những người hành khất. Giúp người, đến khi gặp hoạn nạn, người khác sẽ giúp mình.
- Nêu vấn đề: cho và nhận ở đời.
* Phân tích vấn đề:
- Giải thích:
+ Cho là cho đi (vật chất, tinh thần, kinh nghiệm, …).
+ Nhận là nhận về niềm vui, sự thanh thản và kể cả vật chất.
* Phân tích biểu hiện:
- Cuộc sống còn rất nhiều mảnh đời khốn khổ, cần sự giúp đỡ của cộng đồng.
- Khi giúp đỡ người khác, con người cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc. Và khi lỡ sa chân vào khốn khó, có thể sẽ nhận được sự sẻ chia từ cộng đồng.
* Bình luận:
- Cho và nhận làm cho cuộc sống có ý nghĩa, nó cũng là quy luật của cuộc sống, giúp cho xã hội nhân văn và phát triển hơn, đáng được ca ngợi.
- Nhưng cuộc sống cũng còn lắm kẻ chỉ biết nhận mà không biết cho, hoặc cho đi và đòi phải nhận lại. Điều ấy cần phải phê phán.
* Kết luận:
Cuộc đời sẽ giàu ý nghĩa khi ta biết cho và nhận.
Sau khi Cám nghe Tấm kể về việc sắc đẹp có được sau lần hồi sinh của mình. Cám về thuật lại cho mụ dì ghẻ nghe. Nghe xong hai mẹ con Cám cùng bàn cách để cho sắc đẹp của mình được đẹp hơn. Cám cũng học theo leo lên ngọn cây cau mọc ở bờ ao,mụ dì ghẻ chuẩn bị sẵn một con dao sắc đợi cho Cám leo lên gần ngọn cây rồi bắt đầu chặt. Cám hí hửng sau mỗi nhát chặt cây của mụ dì ghẻ, và rồi cây đổ, Cám rơi xuống ao, chết. Nhưng khác với Tấm, lần này Cám chết cùng với lòng tham và cái ác. Còn mụ dì ghẻ thấy con mình chết mà không hồi sinh thì trong lòng sinh uất ức lâm bệnh mà chết.
Xem thêm tại: https://doctailieu.com/ke-lai-truyen-tam-cam-voi-mot-ket-thuc-khac-h1993
Kế sách giữ nước qua lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua:
+ Tùy thời thế có sách lược phù hợp, binh pháp cần vận dụng linh hoạt, không có khuôn mẫu nhất định
+ Điều kiện quan trọng là toàn dân đoàn kết trên dưới một lòng sẽ thắng giặc
+ Giảm thuế khóa, bớt hình phạt, không phiền nhiễu dân, chăm lo dân có đời sống sung túc
→ Nội dung lời trình bày, người đọc nhận thấy Trần Quốc Tuấn không những là vị tướng tài năng, mưu lược, có lòng trung quân mà thương dân, trọng dân, biết lo cho dân
Bàn với nhà vua về kế sách giữ nước, Trần Quốc Tuấn đã trình bày những nội dung sau:
+ Cần phải có những sách lược cụ thể, tùy vào hoàn cảnh thực tiễn, không nên rập khuôn vào những khuôn mẫu có sẵn.
+ Đoàn kết sức mạnh của toàn thể nhân dân chính là yếu tố quan trọng nhất để thắng giặc.
+ Trần Quốc Tuấn khuyên nhà vua nên quan tâm đến đời sống của người dân, giảm bớt sưu thuế, giảm mức hình phạt, trị nạn quan tham, không nhũng nhiễu nhân dân, tạo điều kiện để người dân có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Qua lời bàn luận của Trần Quốc Tuấn với vua Trần, ta có thể thấy được đây không chỉ là một người anh hùng túc trí đa mưu của dân tộc mà còn là một con người có tấm lòng thương yêu, quan tâm đến đời sống của những người dân nghèo.
Thứ tự: Tổng hợp → Phân tích → Quy nạp → Diễn dịch
b, Trong lời tựa Trích diễm thi tập:
+ Thao tác lập luận sử dụng: thao tác phân tích
+ Ý nghĩa: chia một nhận định chung thành các mặt riêng biệt
- Trong đoạn trích Hiền tài là nguyên khí quốc gia:
+ Từ câu 1 đến câu 2: tác giả dùng thao tác phân tích xem xét mối quan hệ giữa hiền tài, sự phát triển của đất nước
+ Từ câu 2 đến câu 3: thao tác diễn dịch: Tác giả dựa vào luận điểm “hiền tài là nguyên khí quốc gia” để đưa ra luận điểm đầy thuyết phục: coi trọng, bồi đắp nhân tài cho đất nước
- Dẫn chứng rút từ lời tựa: “ Trích diễm thi tập”. Tác giả sử dụng thao tác tổng hợp nhằm thâu tóm những ý, bộ phận vào một kết luận chung, khiến kết luận ấy mang toàn bộ sức nặng của các luận điểm riêng trước đó.
Dẫn chứng rút ra từ bài Hịch tướng sĩ, tác giả sử dụng thao tác quy nạp. Những dẫn chứng khác được sử dụng làm kết luận “Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có?” càng trở nên đáng tin cậy, có sức thuyết phục người người nghe về lí trí, tình cảm
- Nhận định 1: chỉ đúng khi tiền đề biết chân thực, cách suy luận khi diễn dịch phải chính xác. Khi đó, kết luận mang tính tất yếu, không thể bác bỏ, không phải chứng minh
- Nhận định 2: chưa chính xác. Quy nạp không được xét đầy đủ toàn bộ các trường hợp riêng thì kết luận được rủ ra còn chưa chắc chắn, tính xác thực của kết luận còn chờ thực tiễn chứng minh
- Nhận định 3: đúng. Phải có quá trình tổng hợp sau khi phân tích thì công việc xem xét, tìm sự vật, hiện tượng mới được hoàn thành
- Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288).
Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ta được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Bài thơ gợi được cái hồn, cái cốt của làng quê Việt Nam. Bài thơ phảng phất chất thiền thể hiện tâm hồn sâu lắng, thanh cao của bậc vua hiền tài nhân ái Trần Nhân Tông.
suy nghĩ của ông là lời nhắc nhở đối với chúng ta.chúng ta cần phải cố gắng giữ gìn và phát triển đất nước và không được để đất nước ta rơi vào ách đô hộ của nước khác và cũng không để nước ta bị nước khác để đầu cuối có.ông cha ta đã đổ biết bao nhiêu là sương máu mới giữ được nền độc lập cho nước ta vì vậy chúng ta cần cố gắng để giữ gìn đất nước đó được vẹn toàn mãi mãi.và ông cũng quá là một người yêu quý đất nước đến lúc sắp cmat ông vẫn nghĩ cho đất nước.vì vậy nên chúng ta cần cố gắng để giữ gìn không để phụ lòng của vua cha ta