Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo.
Tôi tên là Lục Vân Tiên. Một lần, trên đường trở về nhà khi đi dọc đường gặp toán cướp đang bắt nạt dân làng bèn xông vào cứu người bị nạn. Bọn cướp hung hăng đao kiếm lăm lăm vào, tôi chỉ kịp bẻ vội khúc cây bên đường làm vũ khí .Nhưng vốn là người giỏi võ nên tôi né được những cú đánh của bọn cướp Phong Lai. Và không lâu sau ,tôi đã đánh tan bọn cướp kẻ cầm đầu cũng phải bỏ mạng. Khi đó hai cô gái đang ngồi trong xe mới hoàn hồn nhưng vẫn còn sợ. Lúc đó, tôi mới tới gần xe động viên an ủi 2 cô gái. Hỏi chuyện ra mới biết cô gái đó là con của quan chi phủ Hà Khê. Nay trên đường về nhà gặp cha chẳng may gặp nạn. Đó là tiểu thư Kiều Nguyệt Nga . Cô mong được đền ơn cứu mạng của tôi nhưng tôi từ chối . Tôi vốn là nam tử hán, xưa nay làm ân chưa bao giờ có ý muốn được báo đáp. Nói đoạn, tôi liền đi khỏi.
Tham khảo
Tôi là Kiều Nguyệt Nga, con gái tri phủ Hà Khê. Cha tôi vốn rất nghiêm khắc lại thêm chút lo lắng; ông muốn sắp đặt chuyện tình duyên của tôi để tôi yên bề gia thất, làm tròn lời hứa với mẹ tôi nên cho gọi tôi từ quê nhà ở huyện Tây Xuyên qua Hà Khê bàn tính hôn sự. Tôi dù không muốn nhưng phận làm con phải hiếu thuận cha mẹ, chẳng dám cãi lời. Chẳng kịp chuẩn bị gì, tôi liền đem theo cô hầu Kim Liên lên đường. Đường xa cách trở, phận gái yếu liễu đào tơ, chẳng có tùy tùng, nếu chẳng may giữa đường gặp chuyện chẳng lành thì biết xoay sở làm sao? Nghĩ thế tôi thấy rờn rợn nhưng cũng đành mạnh bước chông chênh.
Quả như điều tôi lo lắng, khi xe đến một quãng đường vắng, xa nhà cửa, không người qua lại, bất thình lình một toán cướp từ đâu xông tới chặn trước xe quát tháo, mặt mày dữ tợn, giáo gươm sáng chói. Tôi và Kim Liên vô cùng hoảng sợ, rụng rời tay chân, không nói nên lời. Chúng hùng hổ bao vây quanh kiệu, xua gươm, múa giáo thị uy. Tên tướng cướp cười sằng sặc, khuôn mặt chằng chịt những vết sẹo trông thật gớm ghiếc. Hắn vén màn thưa, nhìn tôi, ánh mắt chứa đầy dục vọng, cất giọng nham nhở:
– Tiểu thư đi đâu mà vội vã thế này? Hãy ở lại vui vẻ cùng bọn ta. Nơi đây thanh vắng, đừng la lối om sòm.
Nói rồi hắn hất hàm về phía bọn lâu la, cười lớn. Bọn lâu la cũng hò hét hô ứng. Kim Liên sợ quá nép chặt sau lưng. Tôi cũng không còn hồn vía. Sau đó, hắn định áp sát bắt tôi ra thì ngay lúc đó một tiếng quát của ai đó sang sảng vang lên:
“- Lũ côn đồ kia, hãy dừng tay ! Giữa ban ngày ban mặt sao dám chặn đường cướp bóc dân lành, làm điều phi nghĩa?”
Tên tướng cướp nghe tiếng, giật mình quay lại quát: “Thằng nào dám tới lẫy lừng nơi đây? A! Thằng nhãi con. Trước gây việc dữ tại mày. Không chuyện gì của mày ở đây, chớ có can dự kẻo chuốc vạ vào thân, nếu không đừng oán trách bọn ta tàn bạo”.
Bọn lâu la nghe thế cũng liền quay lại quát nạt, khua gươm giáo vây đánh chàng trẻ tuổi. Chẳng chút nao núng, chàng trai trẻ vạch tội kẻ côn đồ, nhân danh chính nghĩa, ra lời kêu gọi dừng tay. Bọn cướp không những không nghe mà còn cười nhạo, lấy đông hiếp yếu vây đánh kẻ thân cô thế cô.
Trận chiến diễn ra kịch liệt. Tôi và Kim Liên vì quá sợ hãi không còn tâm trí nữa. Tiếng la quát lanh lảnh vang lên, tiếng gươm giáo chạm nhau nghe sắt lạnh, tiếng thét đầy sức mạnh của chàng trai, tiếng kêu la của bọn cướp bị đánh trúng đòn đau. Kim Liên sợ quá nấp đằng sau kiệu, lúc này mới khuyên tôi bình tĩnh.
Sau một lúc, tiếng kêu dần ra xa. Chàng trai đã đánh tan quân cướp. Thật là may quá, tôi và Kim Liên đã được cứu rồi. Kim Liên ở phía sau kiệu vẫn chưa hoàn hồn, còn thút thít khóc lóc. Thoáng sau, chàng quay lại, ân cần hỏi han. Tôi và Kim Liên mới bình tĩnh lại. Kim Liên bước ra trình bày rõ sự tình. Chàng cũng giới thiệu tên là Lục Vân Tiên. Chàng là một thư sinh, vừa ở xa tới, vì thấy chuyện bất bình nên ra tay tương trợ. Lúc này, tôi mới cất lời cảm tạ ân công và giới thiệu mình cùng Kim Liên để chàng tiện thưa gọi. Tôi muốn bước ra ngoài để nhìn rõ mặt ân nhân và mong được báo đáp ân cứu mạng của chàng thì Lục thư sinh can ngăn, vì muốn giữ gìn lễ tiết.
Hết lời cảm tạ ân nhân, nếu không có chàng chắc tôi và Lim Liên đã nguy khốn rồi, phận gái hai chữ tiết trinh chắc có lẽ cũng tan tành trong tay bọn cướp. Ân nghĩa ấy, đang lúc giữa đường, biết lấy gì báo đáp. Tôi bèn ngỏ lời mời chàng về phủ của cha miền Hà Khê để tiện báo đức thù công.
Vân Tiên nghe nói liền cười khảng khái rằng làm ơn há dễ trông người trả ơn. Nay đã giúp tôi và Kim liên khỏi cơn hoạn nạn là chàng đã vui rồi, không tính thiệt so hơn làm gì. Với chàng, hành hiệp trượng nghĩa, cứu người đương lúc nguy nan, bảo vệ lẽ phải, thực hiện cái chí khí anh hùng là bổn phận làm trai chứ chẳng cầu danh lợi, cũng chẳng cần báo đáp.
Cảm phục trước hành động anh hùng, hào hiệp; nghĩa khí và đức độ của chàng, tôi đã khắc sâu hình ảnh ấy vào trái tim của mình. Người đời ai cũng vì lợi danh. Nay Lục Vân Tiên chẳng màng đến quả thực là phi thường.
Nói hết lời, Vân Tiên dứt gót ra đi để lại trong tôi bao vấn vương. Đâu chỉ cảm phục, hàm ân mà trong lòng tôi đã khởi phát tình yêu mến đậm sâu đối với chàng. Nay người không cảm nhận, đường đời vạn nẻo, biết đến bao giờ được hội ngộ để tỏ lòng. Than ôi, chữ tình trên thế gian sao mà nghiệt ngã.
Về đến tri phủ, cha tôi liền hỏi han. Tôi tỏ bày hết hiểm nguy trên đường và được ân công họ Lục cứu giúp. Cha tôi khuyên tôi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và hứa sẽ cho người sang Lục Thành mời Vân Tiên sang Hà Khê để đền đáp xứng đáng. Một lần hộ thân, cứu giá, nghìn năm ơn ấy ghi sâu.
Tham khảo:
Cuộc đời mỗi chúng ta luôn xuất hiện những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Để rồi người chúng ta vô tình tương ngộ trong cuộc gặp gỡ đó có thể sẽ trở thành một người quan trọng trong số mệnh của chúng ta. Tôi cũng tình cờ rơi vào một cuộc gặp như thế. Và người con gái tôi gặp được khi ấy mãi đến sau này vẫn ghi dấu sâu sắc trong lòng tôi.
Tôi sinh ra và lớn lên ở quận Đông Thành, cha mẹ đặt tên là Lục Vân Tiên. Từ nhỏ, tôi đã khát khao lập được nhiều công danh, giúp ích cho đời. Dù văn thành võ thạo, tôi vẫn không ngừng cố gắng rèn luyện. Chỉ mong có ngày được đem tài năng giúp dân giúp nước.
Năm 16 tuổi, nghe tin triều đình mở khoa thi, tôi bèn xin phép thầy xuống núi, hăng hái muốn nhanh chóng có được công dạn. Trước ngày vào kinh ứng thí, tôi quyết định về thăm cha mẹ. Thế nhưng, vừa đặt chân xuống núi, tiếng khóc la thảm thiết đã từ khu vực lân cận vọng lại. Tôi tò mò giữ lại một người đang hoảng hốt bỏ chạy để tìm hiểu ngọn nguồn.
Thấy tôi không phải người bản xứ, lại vừa từ trên núi xuống, ông cụ run run khuyên nhủ:
- Cậu từ trên núi xuống, hẳn không biết sự tình nơi này. Có một toán cướp hung bạo, ngang nhiên cướp của dân lành. Mau mau đi khỏi, kẻo lại rước họa vào thân...
Ông lão chưa nói hết lời đã vội vã chạy đi. Lửa giận trong tôi bùng cháy dữ dội. Sư phụ đã dạy phải biết bênh vực dân lành, gặp hoạn nạn phải ra tay tương trợ. Huống chi giặc cướp hung tàn, người dân hiền lành vô tội sao có thể tránh thoát khỏi tay chúng? Không chần chừ nghĩ ngợi gì thêm, tôi bẻ một cành cây rắn chắc ven đường làm gậy rồi nhanh chóng xông về phía làng lũ cướp đang hoành hành, quát lớn:
- Đảng hung đồ kia! Thanh thiên bạch nhật, tụi bây chớ quen làm thói hồ đồ mà hại đến người dân vô tội
Thấy một người bất ngờ xông ra cản đường, lũ cướp thoáng dừng lại. Những tưởng chúng sẽ biết đường dừng tay. Ngờ đâu tên tướng cướp hung tợn, mặt đỏ phừng phừng, trợn mắt cầm thanh gươm sắc chỉ thẳng vào tôi đe dọa:
- Thằng nào to gan dám lớn tiếng can dự? Nhiều chuyện chớ trách hậu quả vạ thân. Truyền quân bốn phía bắt nó lại.
Tiếng hò hét vừa vang lên, cả toán cướp đã bao vây tứ phía, kiên quyết không cho tôi có cơ hội tháo chạy. Không rõ có bao nhiêu người, chỉ thấy chúng mặt đằng đằng sát khí. Gươm giáo sắc lạnh va chạm vào nhau. Khuôn mặt tên nào tên ấy đầy gớm ghiếc và hung tợn. Nhớ bao năm thầy dạy, tôi bình tĩnh quan sát. Đánh trái chặn phải, trước sau công thủ càn quét. Lũ cướp hữu dũng vô mưu, khó khăn chống đỡ đòn đánh của tôi, chẳng mấy chốc đã rơi vào thế yếu. Nhiều tên gục ngã không đứng dậy nổi. Nhiều tên kêu la thảm thiết, e dè không dám tiến lên. Đến khi bị đánh đến thảm hại, chúng mới vứt hết gươm giáo, tháo chạy tán loạn. Tướng cướp Phong Lai bị tôi một gậy không kịp trở tay, bỏ mạng.
Lũ cướp đã chạy xa, âm thanh hỗn loạn biến mất, nghe tiếng than khóc trong xe ngựa gần đó, tôi bèn lại gần hỏi thăm.
- Không biết là ai đang ở trong xe than khóc.
- Xin thưa tôi là người ngay thẳng, giữa đường gặp nạn nên sa vào tay quân hung đồ. Xe ngựa chật hẹp, cúi đầu trăm lạy xin cứu giúp.
Trong xe vọng ra tiếng nói của một người con gái, nghe giọng thì có lẽ là nha hoàn cùng tiểu thư nhà nào đó. Không làm khó thêm, tôi nhanh chóng giải thích ngay:
- Giặc cướp lâu la ta đã đánh tan. Nàng là phận nữ nhi, nam nữ không tiện tùy ý gặp mặt, xin hãy ngồi đó khoan ra ngoài. Không biết tiểu thư con gái nhà ai? Đi đâu mà gặp tai ương bất ngờ. Nàng tên họ là gì? Có việc quan trọng hay sao mà lại đi qua chốn này? Lại chẳng hay hai nàng ai là thầy ai là tớ?
Chần chừ chốc lát, tôi mới nghe được câu trả lời. Trong xe có hai chủ tớ, tiểu thư là Kiều Nguyệt Nga, con gái tri phủ ở miền Hà Khê, quê nhà ở quận Tây Xuyên. Người còn lại là nàng hầu Kim Liên. Cha Kiều Nguyệt Nga mới cho người gửi thư, tỏ ý muốn rước nàng về định bề gia thất. Kiều Nguyệt Nga nghe lời cha nên đồng ý nên dù đường xá xa xôi cũng không ngại ngần.
Trên đường đi lại chẳng may gặp cướp, chủ tớ bị bắt lại, may mắn gặp tôi nên được giải nguy. Nàng cảm động ân đức cứu mạng, định bước ra xe khấu đầu tạ ơn, tôi vội ngăn cản. Không có vàng bạc mang theo, nàng khéo léo trình bày, ngỏ ý mời tôi ghé qua nhà ở Hà Khê để đền ơn. Từng câu từng lời đều thể hiện là người con gái có gia giáo, tài đức, thấu tình đạt lí.
Song xét đến ý muốn tự nguyện trừ bạo giúp dân, tôi bèn khước từ. Xả thân hành hiệp trượng nghĩa là đạo lí nên làm, nào có mưu cầu danh lợi thiệt hơn. Nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, thấy việc nghĩa không từ nan, thấy người gặp nạn quyết ra tay ứng cứu, đó mới là nghĩa khí của anh hùng.
Tôi nói rõ lòng mình rồi từ biệt chủ tớ hai người, tiếp tục lên đường về thăm cha mẹ. Lòng tôi hăm hở nhiều cảm xúc, vui sướng vì đã làm được việc nghĩa, hóa giải an nguy cho người dân vô tội. Đồng thời cũng cảm phục người con gái khéo léo, dịu dàng. Con đường phía trước vẫn còn dài, lần này xuống núi, tôi tự nhủ sẽ làm rạng danh thầy dạy, đem tài trí giúp ích cho cuộc đời.
tham khảo
Năm ấy, khi nghe tin triều đình mở khoa thi, tôi đã rất hăng hái xin phép thầy xuống núi. Trước khi lên kinh đô, tôi về thăm cha mẹ. Vừa xuống núi, tôi đã nghe thấy tiếng người dân khóc than thảm thiết. Họ kéo nhau chạy tán loạn vào rừng để trốn. Thấy thế, tôi liền giữ một ông cụ đang hốt hoảng bỏ chạy lại để tìm hiểu sự tình. Ông cụ khuyên tôi rằng: “- Cháu hãy chạy đi nếu không muốn chết ! Lũ cướp rất đáng sợ, chúng trang bị rất nhiều vũ khí, chúng đang tàn phá nhà cửa và cướp bóc của cải của dân làng chúng tôi. Cậu hãy chạy mau đi, nghe lời lão đi! Hiện có một cô gái nghe nói xinh đẹp lắm đang bị chúng bắt lại và bị cướp hết vàng bạc rồi. Thôi lão đi đây….”
Vừa dứt lời, ông lão đã tức tốc chạy đi. Nghe thấy thế, ngọn lửa giận dữ trong tôi bùng cháy. Lũ cướp đang không biết hung bạo thế nào nhưng nhìn thấy dân làng hỗn loạn, sợ hãi, tôi thầm nghĩ chúng cũng tàn ác lắm. Nhất định tôi không thể bỏ qua chuyện này được, phải giúp họ thôi.
Không kịp nghĩ ngợi lâu, tôi ghé qua bên đường bẻ một cành cây dài làm gậy rồi nhanh như chớp xông vào giữa đám cướp quát lớn: “- Bớ đảng hung đồ kia! Tụi bây chớ quen làm thói hồ đồ mà hại dân vô tội”. Tôi nói vậy để bọn chúng nhận ra những việc làm sai trái của mình và cũng là đang mở ra cho chúng một con đường để thoát thân. Ngờ đâu tên tướng cướp mắt trợn ngược đầy hung tợn, mặt đỏ phừng phừng cầm thanh gươm sắc bén chỉ vào tôi và quát: “- Mày là thằng nào mà dám tới đây lớn tiếng thế? Không việc gì của mày mà can vào. Khôn hồn thì đi ngay chứ không đừng trách ta”. Nói rồi, tên tướng cướp hò hét bọn lâu la bao vây bốn phía quyết không cho tôi đường tháo chạy.
Trong vòng vây, bọn chúng người cầm gươm, người cầm giáo đằng đằng sát khí hô vang: “GIẾT! GIẾT! GIẾT!”. Tiếng gươm khua sắc lạnh, tiếng cười hét điên loạn, những khuôn mặt gớm ghiếc, nhưng ánh mắt chế nhạo nhìn tôi chằm chằm. Rồi chúng cứ thế mà xông vào, vung gươm, giáo nhằm tôi mà đâm. Tôi bình tĩnh quan sát. Bọn chúng tuy đông nhưng là bọn hữu dũng vô mưu, bất tài vô dụng, chỉ lấy đông hiếp yếu chứ chẳng tài cán gì. Rất nhanh, tôi cầm cây gậy đánh hết bên trái rồi đánh bên phải, triển hết tài nghệ mà thầy tôi đã truyền dạy.
Cứ thế, tôi tả xung hữu đột, đánh trước đánh sau, càn quét bốn phía. Những đòn đánh tuyệt diệu như rồng cuộn, hổ vồ làm chúng không biết đường đỡ, bị trúng đòn sợ đến kinh hồn. Nhiều tên gục ngã tại chỗ không gượng dậy nổi. Nhiều tên khác kêu la thảm thiết, thất thần không dám xông vào nữa cứ dè chứng bên ngoài mà hò hét.
Tôi tiếp tục vung gậy tới tấp. Chiếc gậy trong tay cứ vun vút lao vào đầu, vào người chúng. Đau quá, chúng vứt hết gươm giáo mà bỏ chạy tán loạn để thoát thân. Tên tướng cướp Phong Lai cũng bị tôi đánh cho một trận sống dở chết dở. Biết không địch nổi, hắn hò hét lũ lâu la bỏ chạy, không dám nhìn lại.
Dẹp xong lũ cướp hung tợn, tôi ân cần hỏi người gặp nạn. Hỏi ra thì mới biết nàng là Kiều Nguyệt Nga, người ở quận Tây Xuyên còn người kia là nàng hầu Kim Liên. Cha Kiều Nguyệt Nga là tri phủ ở miền Hà Khê. Ông mới cho người gửi thư rước nàng về để định bề gia thất. Dù không phải là người mà nàng muốn gắn bó nhưng vì là ý cha nên nàng đành chấp thuận. Nàng Nguyệt Nga thật là một cô gái hiếu thuận và đức hạnh.
Nàng kể rằng đang trên đường về nhà vâng lời cha thì chẳng may lại bị bắt lại, rất may tôi có mặt kịp thời giải nguy cho. Cảm ân đức giải nguy cứu mạng, Kiều Nguyệt Nga định bước ra khấu đầu, tôi liền ngăn cản. Nàng cảm kích lắm mời tôi ghé qua nhà nàng ở Hà Khê để đền ơn cho tôi. Vừa nghe nàng nói vậy, tôi liền cười lớn khước từ bởi việc tôi làm là tự nguyện, là vì thấy việc bất nghĩa thì không thể không xả thân chứ nào mong cầu lợi danh. Bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, thấy việc nghĩa quyết không từ nan, thấy người gặp nạn quyết ứng cứu, đó mới là nghĩa khí kẻ làm trai.
Tôi cảm tạ tấm chân tình ấy của nàng rồi từ biệt để lên đường về thăm cha mẹ. Trên đường đi, lòng tôi tràn ngập hân hoan vì vừa làm được một việc tốt, lại cũng vừa kiểm chứng tài nghệ đã luyện tập bấy lâu. Tôi đã giúp ích cho dân làng rồi. Tôi sẽ lại hăm hở lên đường để thi thố tài năng, cứu giúp những người khốn khó, diệt trừ lũ bạo ngược. Tôi chỉ mong nhân dân mãi luôn có được cuộc sống ấm no mà thôi. Lần này xuống núi, nhất định tôi sẽ làm rạng danh thầy, quyết ứng thí thành công, đem sức giúp ích cho đời.
Tham khảo
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kì về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian.
Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này. “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa.
Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu. Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy.
Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp: “Vân Tiên tả đột hữu xông Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay Phong Lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rày thân vong” Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống.
Tham Khảo
Bạn đọc dàn ý rồi tự làm một bài văn hoàn chỉnh theo ý mình nhé!!
a) Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Đình Chiểu là thầy thuốc, nhà thơ, nhà giáo - ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước Nam Bộ đầu thế kỉ XIX.
+ Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm được viết vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX ca ngợi tinh thần nghĩa hiệp, giúp đỡ giữa con người với con người, hướng tới lẽ công bằng.
- Giới thiệu khái quát 14 câu thơ đầu đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga : tái hiện cảnh Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp.
b) Thân bài
* Khái quát về đoạn trích:
- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của Truyện Lục Vân Tiên.
- Giá trị nội dung: Khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, qua đó thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
* Phân tích 14 câu thơ đầu: Cảnh Lục Vân Tiên đánh cướp
- Giữa đường gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp
+ Từ giã thầy, Vân Tiên xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí
+ Giữa đường thì gặp phải bọn cướp hãm hại dân lành liền hành hiệp trượng nghĩa.
=> Tính cách anh hùng, tài năng giúp đời và tấm lòng "vị nghĩa vong thân”
- Đối đầu với lũ cướp
+ Vân Tiên chỉ có một mình, tay không đánh cướp
+ Lũ cướp rất đông với gươm giáo sáng ngời
+ Không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy
+ Không hề run sợ, Vân Tiên xông vào đánh cướp
+ Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, tung hoành giữa bọn cướp.
- Kết quả trận đánh cướp
+ Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác
+ Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt.
=> Lục Vân Tiên mang cốt cách nghĩa sĩ thời loạn với cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử cao đẹp, đó là cách cư xử của một tinh thần hiệp nghĩa của các bậc hảo hán.
c) Kết bài
- Cảm nghĩ của em về 14 câu thơ đầu.
Triệu Vân (chữ Hán: 趙雲, bính âm: Zhao Yun. 168?-229 [1]), tên tự là Tử Long (子龍), người vùng Thường Sơn, là danh tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán. Ông cũng được Lưu Bị xem như "người anh em thứ tư" tiếp theo trong 3 anh em kết nghĩa tại vườn đào
Tuổi thơ[sửa | sửa mã nguồn]
Triệu Vân sinh tại huyện Chân Định (正定县) thuộc quận Thường Sơn (常山郡, hiện nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc). Ông có ngoại hình hùng dũng, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược.
Tam Quốc diễn nghĩa có ghi rằng ông "cao tám thước, mắt rồng, mày rậm, má bầu, mặt rộng, sống mũi diều hâu, lưng sói, tay vượn, cưỡi Bạch Long mã, uy phong lẫm liệt".
Năm 184, quân Khăn Vàng nổi dậy chống triều đình nhà Hán. Triệu Vân được người trong quận cử cầm quân đến gia nhập với tướng Công Tôn Toản để đánh dẹp.
Theo Công Tôn Toản[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 191, liên minh chống Đổng Trác tan rã, các chư hầu quay sang đánh lẫn nhau. Viên Thiệu đoạt Ký châu của Hàn Phức, nhiều người đến quy phục. Nhưng Triệu Vân không đến theo Viên Thiệu, lại đến theo Công Tôn Toản. Ông theo Công Tôn Toản chinh chiến, trong đó có những trận đụng độ với Viên Thiệu.
Lưu Bị khi đó lực lượng còn mỏng, cũng đến nhờ Công Tôn Toản. Lưu Bị gặp Triệu Vân, rất quý mến ông và kết giao.
Năm 193, Công Tôn Toản giao tranh với Viên Thiệu, cử Điền Khải đi làm thứ sử Thanh châu để chống Viên Thiệu và sai Lưu Bị đi giúp Điền Khải. Triệu Vân cũng được cử đi tháp tùng.
Sau đó Triệu Vân trở về với Công Tôn Toản. Giữa lúc Công Tôn Toản và Viên Thiệu giao tranh ác liệt, anh cả của Triệu Vân qua đời, ông cáo từ Công Tôn Toản về quê để tang anh. Lưu Bị đoán Triệu Vân nhân dịp này sẽ đi luôn, nên tìm gặp ông và cầm tay hẹn ngày gặp lại.
Phò tá Lưu Bị[sửa | sửa mã nguồn]
Tập hợp lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 199, Công Tôn Toản bị Viên Thiệu tiêu diệt và chiếm cứ U châu. Năm 200, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo ở Từ châu thua trận, chạy đến Ký châu nương nhờ. Triệu Vân đến tìm Lưu Bị, hai người cùng nhau lưu tại Nghiệp Thành (thủ phủ Ký châu). Triệu Vân theo lệnh của Lưu Bị, ngầm chiêu tập binh mã được vài trăm người, Viên Thiệu không hay biết.[2]
Ít lâu sau Viên Thiệu và Tào Tháo đánh lớn, Lưu Bị bỏ Viên Thiệu chạy về phía nam, gặp lại được hai người em bị lạc là Quan Vũ và Trương Phi, cùng về Kinh châu theo Lưu Biểu. Triệu Vân theo đi.
Tam quốc diễn nghĩa kể rằng Triệu Vân và Lưu Bị chưa gặp lại nhau khi Lưu Bị còn ở chỗ Viên Thiệu. Hai người gặp lại nhau sau khi anh em Lưu Bị đã đoàn tụ sau thất bại Từ châu.
Trận Bác Vọng[sửa | sửa mã nguồn]
Khoảng trước năm 204,[3] Triệu Vân theo Lưu Bị khởi binh từ Tân Dã đi đánh Tào Tháo, qua Nam Dương và Bác Vọng, Trường Sơn (tức núi Phương Thành), sau đó đến huyện Diệp ở phía tây nam Hứa Xương. Tướng Tào trấn thủ huyện Diệp là Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm và Lý Điển. Lưu Bị đánh huyện Diệp không nổi phải rút lui.
Hạ Hầu Đôn mang quân truy kích, Lưu Bị đặt phục binh ở gò Bác Vọng. Triệu Vân tham chiến đánh bại Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm, bắt sống bộ tướng của Hạ Hầu Đôn là Hạ Hầu Lan. Hạ Hầu Đôn phải lui binh, còn Lưu Bị cũng không truy kích tiếp, rút về Tân Dã.
Tam quốc diễn nghĩa kể rằng trận Bác Vọng diễn ra năm 208 khi Tào Tháo nam chinh hạ Kinh châu, và đây chính là trận đầu tiên Gia Cát Lượng tham gia với tư cách quân sư trong quân Lưu Bị. mưu kế ở Bác Vọng do Gia Cát Lượng dàn trận.[3]
Hạ Hầu Lan vốn là người cùng làng với Triệu Vân, từ nhỏ là bạn ông, vì vậy ông xin với Lưu Bị tha chết cho Lan. Lưu Bị đồng ý. Triệu Vân tuy vì bạn xin hộ nhưng không coi Hạ Hầu Lan là người thân tín, mà nói rõ cho Lan biết nguyên tắc tiến cử việc trong quân. Mọi người đều xem trọng ông là người suy xét thận trọng.[4]
Hai lần đoạt lại A Đẩu[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 208, Tào Tháo mang quân đánh chiếm Kinh châu. Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo ở Đương Dương, Tràng Bản bị thua lớn, bỏ chạy về phía nam. Quân dân Lưu Bị chạy tan tác. Trong lúc hoảng loạn nhiều người nói Triệu Vân đã bỏ sang hàng Tào nhưng Lưu Bị một mực tin tưởng ông.
Trong lúc đó Triệu Vân còn xông pha trận địa, cứu được mẹ con Cam phu nhân (vợ Lưu Bị) và con trai nhỏ của Lưu Bị là A Đẩu (tức Lưu Thiện) ra khỏi vòng vây chạy về với Lưu Bị. Lưu Bị vô cùng cảm kích, còn những người nghĩ sai về ông rất xấu hổ.[5]
Tam quốc diễn nghĩa mô tả việc Triệu Vân phá vây cứu A Đẩu rất ly kỳ hấp dẫn. Người vợ đi theo trông coi A Đẩu lại không phải Cam phu nhân (mẹ đẻ A Đẩu) mà là My phu nhân (vợ cả Lưu Bị). My phu nhân trao A Đẩu cho Triệu Vân rồi tự sát để khỏi vướng chân ông. Sau đó, ông tả xung hữu đột vào đám quân Tào, giết không biết bao nhiêu là kể. "Tháo nói: - Thực là hổ tướng, ta nên bắt sống lấy. Liền sai ngươi tế ngựa đi truyền báo cho các nơi rằng: - Triệu Vân đi đến đâu, không ai được bắn lén, chỉ cốt bắt sống thôi. Nhờ lệnh ấy, Triệu Vân thoát được nạn. Đó cũng là phúc của A Đẩu nữa."[6]
Một lúc lâu sau, Triệu Vân phá được vòng vây trở về gặp Lưu Bị. Khi trở về, Lưu Bị đã vứt A Đẩu xuống đất mắng: "Vì mày suýt nữa ta mất một đại tướng!". Trong trận đó, ông đã giết được 50 viên tướng Tào, chặt gãy 2 lá cờ to, lấy được gươm báu Thanh Công - Thanh gươm báu mạ vàng của Tào Tháo, có thể chém gãy các loại binh khí.
Triệu Vân được phong làm Nha môn tướng quân. Ông cùng các tướng của Lưu Bị tham gia liên minh với Tôn Quyền chống Tào Tháo, đánh bại Tào Tháo ở trận Xích Bích, sau đó đánh chiếm các quận phía nam Kinh châu. Ông được giao giữ chức Thái thú quận Quế Dương thay hàng tướng Triệu Phạm.
Triệu Phạm có người chị dâu họ Phàn, ở goá 3 năm, rất xinh đẹp, muốn gả cho Triệu Vân, nhưng ông không đồng ý. Sau này Triệu Phạm bỏ trốn, Triệu Vân không bị liên lụy vì việc đó.[4]
Năm 213, Lưu Bị mang quân vào đánh Ích châu. Tôn phu nhân vợ mới của Lưu Bị là em gái Tôn Quyền thường tự ý dắt lính tráng theo hầu diễu võ dương oai, phạm vào pháp luật. Lưu Bị tin cậy Triệu Vân, giao ông giữ chức Tư mã ở Kinh châu, quản lý việc trong cung.
Tôn Quyền nghe tin Lưu Bị đi vắng, bèn phái một đội thuyền đến Kinh châu đón em gái về. Tôn phu nhân muốn mang theo con Lưu Bị là Lưu Thiện lúc đó mới 7 tuổi, về theo. Triệu Vân nghe tin, vội cùng Trương Phi mang quân ra chặn sông, khuyên Tôn phu nhân ở lại nhưng Tôn phu nhân không nghe. Hai tướng đành để Tôn phu nhân đi, nhưng buộc phu nhân để lại A Đẩu.
Vào Tây Xuyên[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 214, việc đánh chiếm Ích châu gặp khó khăn, Lưu Bị phải quay về ải Hà Manh. Triệu Vân được lệnh cùng Trương Phi, Gia Cát Lượng mang quân vào Tây Xuyên trợ chiến. Ông cùng Gia Cát Lượng và Trương Phi đánh về phía tây, bình định các huyện. Khi đến Giang châu,[7] Triệu Vân từ Mân Giang tiến lên Giang Dương rồi vào hội binh với Gia Cát Lượng ở Thành Đô.
Sau khi chiếm được Giang châu, Trương Phi cùng Gia Cát Lượng đi theo đường phía bắc, còn Triệu Vân cầm cánh quân đi theo đường phía nam, cùng hội ở Lạc Thành. Ông theo đường phía tây nam xuống chiếm Giang Dương, tiến vào quận Kiện Vi, rồi lên phía bắc qua Nội Giang, Tư Trung, Giản Dương. Sau đó Triệu Vân hội binh với Trương Phi và Gia Cát Lượng cùng giúp Lưu Bị đánh hạ Lạc Thành.
Lưu Chương đầu hàng. Lưu Bị giành được Tây Xuyên, Triệu Vân được phong làm Dực quân tướng quân. Nhiều người kiến nghị chia nhà cửa, ruộng vườn ở Thành Đô làm phần thưởng cho các tướng. Triệu Vân phản đối, ông nói:[4]
Xưa kia Hoắc Khứ Bệnh diệt Hung Nô mà nhà cửa không có. Nay quốc tặc không như Hung Nô, chúng ta không nên tham sự yên ổn. Đợi đến khi bình định được thiên hạ, chúng ta ai nấy trở về trồng dâu cấy lúa trên đất của mình, thế mới phải. Trăm họ Ích châu vừa trải qua loạn lạc, ruộng vườn nên trả cho họ cày cấy làm ăn. Như thế chúng ta mới làm họ yên lòng và mới trưng dụng được sức người sức của họ được
Lưu Bị nghe theo, nhờ vậy Ích châu được ổn định dưới chính quyền mới.
Đánh lui quân Tào[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 219, Lưu Bị mang quân đánh sang Hán Trung mà Tào Tháo vừa chiếm của Trương Lỗ. Trận đầu Hoàng Trung đánh bại giết chết tướng Tào là Hạ Hầu Uyên. Tào Tháo khởi 20 vạn quân sang Đông Xuyên, vận theo rất nhiều lương thảo.
Hoàng Trung cho rằng có thể đánh cướp lấy lương thực của Tào Tháo, bèn mang quân đánh. Quá thời gian định ước với nhau và chưa thấy Hoàng Trung trở về, Triệu Vân bèn mang vài chục kị binh đi thám thính, đúng lúc chạm trán với quân Tào. Gặp quân Tào đông đảo nhưng ông không sợ hãi, cùng các kị binh phá vỡ vòng vây. Quân Tào khiếp sợ không dám lại gần, Triệu Vân vừa đánh vừa lui. Quân Tào thấy Triệu Vân ít người, ào ào đuổi theo, Triệu Vân cố sức đánh lui nhiều đợt truy kích của quân Tào, ngoảnh lại thấy bộ tướng Trương Trứ còn mắc trong vòng vây, lại đánh vào trong hàng ngũ quân Tào, cứu được Trương Trứ cùng thoát ra, trở về trại.[8]
Trong trại quân Thục, Miêu dương trưởng là Trương Ký thấy quân Tào đánh đến trại, đề nghị đóng chặt cổng lại để thế thủ, nhưng Triệu Vân không nghe theo, đề nghị mở toang cổng trại, lệnh cho quân sĩ im hơi lặng tiếng. Quân Tào đuổi đến nơi, thấy trại quân Thục không cờ không trống, nghi là có phục binh nên rục rịch rút về. Quân Tào vừa quay lưng, Triệu Vân lập tức truyền lệnh, quân Thục nhất loạt bắn tên ra, còn Triệu Vân hạ lệnh thúc trống, tù và ầm ĩ. Quân Tào sợ bị đuổi riết vội xô nhau chạy một mạch tới bờ sông Hán Thủy, dẫm đạp lên nhau, bị rơi xuống sông chết khá nhiều.[9]
Hôm sau, Lưu Bị đến tận nơi, hết lời khen ngợi ông. Từ đó trong quân gọi ông là "Hổ uy tướng quân".
Can gián đánh Ngô[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn Quyền tập kích Kinh châu, Quan Vũ bị bắt và bị sát hại. Lưu Bị giận dữ khởi đại quân đi báo thù. Triệu Vân khuyên Lưu Bị:[10]
Giặc nước là Tào Tháo chứ không phải Tôn Quyền. Hơn nữa, nếu diệt được Tào Tháo, Tôn Quyền ắt phải thần phục. Hiện nay tuy Tào Tháo đã chết, nhưng con là Tào Phi lại cướp ngôi nhà Hán. Chúng ta hãy thuận theo lòng dân hãy chiếm lấy Quan Trung, giữ chặt vùng thượng du Vị Thủy, Hoàng Hà mà thảo phạt nghịch tặc. Như vậy các nghĩa sĩ ở Quan Đông sẽ kéo nhau đến tiếp vương sư. Nay ta gạt Ngụy sang một bên để đánh Ngô, chỉ sợ vừa mới đánh nhau đã không sao rút ra nổi
Lưu Bị không nghe theo, thân chinh khởi binh đánh Ngô, để Triệu Vân ở lại giữ Hán Trung. Năm 222, Lưu Bị đại bại ở Hào Đình, Triệu Vân mang quân đến Vĩnh An tiếp ứng đón rước, quân Ngô lui về.
Thời Lưu Thiện[sửa | sửa mã nguồn]
Lưu Bị mất, ông tiếp tục phục vụ Lưu Thiện. Năm 223, Triệu Vân được Lưu Thiện phong làm Trung hộ quân, Chinh nam tướng quân, Vĩnh Xương đình hầu, sau đó thăng lên Trấn đông tướng quân.
Năm 227, Triệu Vân cùng thừa tướng Gia Cát Lượng tập kết quân đội ở Hán Trung chuẩn bị đánh Ngụy, Triệu Vân theo ra chiến dịch.
Năm 228, Gia Cát Lượng ra quân, Triệu Vân được cử đi cùng Đặng Chi mang ít quân ra Tà Cốc, còn mình khởi đại quân ra Kỳ Sơn. Trong lúc Nhai Đình thất thủ khiến Gia Cát Lượng phải lui đại quân về Hán Trung thì Triệu Vân và Đặng Chi cũng chỉ có ít quân, bị Tào Chân đánh bại ở Cơ Cốc phải rút về. Triệu Vân đi chặn hậu, quân Thục rút lui có kỷ luật.
Về nước, ông được phong chức thành Định quân tướng quân.[9] Gia Cát Lượng thấy ông không để tổn thất quân sĩ, cho phép ông lấy vải vóc để thưởng cho quân, nhưng ông từ chối vì đội quân của ông đã để thua trận không đáng nhận thưởng.
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Mãi tới năm 260, Lưu Thiện mới truy phong cho các tướng đã quá cố, thì 4 vị Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu và Hoàng Trung đều được truy tặng tước hầu, chỉ có Triệu Vân không ở trong số đó.
Đại tướng quân Khương Duy và một số tướng lĩnh tỏ ra bất bình với Lưu Thiện về việc này, đề nghị phải truy phong cho ông.[11] Sang năm 261, Lưu Thiện mới truy phong ông làm "Thuận Bình hầu" (順平侯).
Miếu thờ và tượng Triệu Vân tại Chính Định, Hà Bắc, Trung Quốc
Triệu Vân có hai con trai là Triệu Thống và Triệu Quảng. Người con thứ hai là thuộc cấp của Khương Duy và chết tại trận Đạp Trung.
Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]
Triệu Vân là tướng có uy dũng ngoài mặt trận, còn trong màn trướng, ông là người chính trực, lâm sự bình tĩnh, một lòng vì nước, rất được lòng mọi người. Trong việc chính sự, Triệu Vân cũng được xem là người có tư duy nhạy bén, suy nghĩ thấu đáo.[12]
Trong Tam quốc diễn nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Triệu Vân trong trận Trường Bản
Triệu Vân trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung được mệnh danh là một trong "ngũ hổ tướng" của Lưu Bị. Nhưng các sử gia khẳng định Triệu Vân không được đứng ngang hàng với 4 vị tướng kia:[13] Khi Lưu Bị xưng vương đã phong 4 chức vụ quân sự cao nhất cho 4 người: Quan Vũ là Tiền tướng quân, Trương Phi là Hữu tướng quân, Mã Siêu là Tả tướng quân và Hoàng Trung là Hậu tướng quân, còn Triệu Vân chỉ là Dực quân tướng quân đứng dưới 4 người đó. Điều này gây khó hiểu cho chính các sử gia.[14]Thật ra, dưới quyền Lưu Bị đương thời không có ngũ hổ tướng, khái niệm này do nhà văn La Quán Trung theo dân gian truyền lại mà đặt ra.[13][15]
Hình ảnh Triệu Vân trong Tam quốc diễn nghĩa luôn được mô tả là viên tướng đánh trận dũng mãnh, quả cảm nhưng chắc chắn, tận tụy. Đặc biệt chân dung Triệu Vân nổi bật trong trận Đương Dương Tràng Bản một mình cưỡi Bạch Long mã phá vây hàng vạn quân Tào, chém gãy 2 lá cờ to, giết 50 danh tướng quân Tào, lấy được thanh gươm báu Thanh Công - Thanh gươm báu mạ vàng của Tào Tháo, có thể chém gãy các loại binh khí. Bài thơ về Triệu Vân cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản:
Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng
Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng
Xưa nay cứu chúa xông trăm trận
Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long
Về tuổi tác Triệu Vân, La Quán Trung nói mang tính ước lệ. Một mặt ông luôn được mô tả là người trẻ trung, các nhà làm phim Tam Quốc diễn nghĩa cũng xếp tuổi ông dưới Lưu Quan Trương và để Lưu Thiện gọi ông là "chú Tư", gương mặt ông trong điện ảnh thời Lưu Bị còn sống luôn thanh niên tráng kiện. Nhưng khi ông theo Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn lần thứ nhất năm 228, La Quán Trung lại nói Triệu Vân đã 60 tuổi; theo đó tính ngược lại thì Triệu Vân sinh năm 168.
Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Triệu Vân là hiện tượng đặc trưng nổi bật tại Trung Quốc phổ biến trong văn hóa, văn học, nghệ thuật và những giai thoại. Triệu Vân là một anh hùng nổi tiếng từ thời kỳ Tam Quốc, được dân gian khai thác truyền qua nhiều thế kỷ. Ông trở thành một cái tên quen thuộc do sự phổ biến của cuốn tiểu thuyết lịch sử Tam quốc diễn nghĩa.
Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Triệu Vân đôi khi xuất hiện như một vị thần cửa trong ngôi đền Trung Quốc và đạo giáo ở Hà Nam, cùng với người anh vợ là Mã Siêu.
Dân gian[sửa | sửa mã nguồn]
Một câu truyện dân gian Trung Quốc nói về cái chết của Triệu Vân không được đề cập trong Tam quốc diễn nghĩa. Trong câu chuyện này, Triệu Vân không bao giờ bị thương trong trận chiến trước đây, vì vậy không có vết sẹo nào trên cơ thể của mình. Một ngày, trong khi ông đang tắm, vợ ông nghịch ngợm châm ông với một cây kim may. Triệu Vân bắt đầu chảy máu đầm đìa và cuối cùng chết vì sốc.
Phim và truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 2008, Phim Hongkong Tam Quốc: Sự phục sinh của Rồng dựa trên câu chuyện trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Nó được đạo diễn bởi Lý Nhân Cảng và ngôi sao Hongkong Lưu Đức Hoa vào vai "Triệu Tử Long". Diễn viên đại lục Hồ Quân miêu tả Triêu Vân trong Đại chiến Xích Bích của đạo diễn Ngô Vũ Sâm, phần 2 của trận chiến sử thi trong phim Đại Chiến Xích Bích.
Những diễn viên đáng chú ý đã đóng vai Triệu Vân trong loạt phim truyền hình bao gồm:
Trương Sơn, Dương Phàm, Hầu Vĩnh Sinh trong Tam quốc diễn nghĩa (1994).
Nhiếp Viễn trong Tam Quốc diễn nghĩa (2010).
Ban Kiệt trong Chung Cực Tam Quốc.
Lâm Canh Tân trong Võ thần Triệu Tử Long (2016).
Trò chơi[sửa | sửa mã nguồn]
Triệu Vân là một trong 5 hổ tướng được hầu hết người chơi chiêu mộ trong NES RPG Destiny of an Emperor.
Triệu Vân là nhân vật mở mặc định trong dòng game Koei's Dynasty Warriors và Warriors Orochi. Ông thường xuất hiện nổi bật trên trang bìa của mỗi tiêu đề, và thường xuyên nhấtđược sử dụng bởi các nhà phát triển trong ảnh chụp màn hình và các tài liệu quảng cáo cho bản phát hành sắp tới. Ông xuất hiện trong dòng game chiến thuật Koei's Romance of the Three Kingdoms.
Trang phục Xin Zhao Triệu Tử Long trong game Liên Minh Huyền Thoại được thiết kế dựa trên nhân vật Triệu Vân.
Triệu Vân cũng có mặt trong game Lost Saga.
triệu vân liên quân bú to