K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 10 2017

Nhân ngày 27/7 năm nay, xin viết đôi dòng về bà, một cựu chiến binh và cũng là vợ liệt sĩ, một thương binh nặng với nghị lực phi thường, sống có niềm tin, biết cách vượt qua mọi khó khăn để xây dựng cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc.

Sinh ra trong một gia đình truyền thống cách mạng, có 3 anh trai là Võ Văn Đình, Võ Văn Phong và Võ Văn Ti đều là liệt sĩ, có mẹ là Mẹ Việt Nam Anh hùng Trần Thị Hảo, từ tấm bé, tận mắt chứng kiến các anh mình xông pha ra trận, Các luôn đòi theo các anh ra chiến trường đánh giặc. Nhưng khi nghe các anh nói, em là phụ nữ, phải ở quê để tiếp tế lương thực cho cán bộ nằm vùng của ta, rồi còn thay các anh chăm sóc cha mẹ khi tuổi già bởi các anh ra đi chưa biết sống chết thế nào…, Các chấp nhận ở lại hậu phương để các anh ra trận.

Với bản tính tháo vát, nhanh nhẹn, năm 18 tuổi, Võ Thị Các được dân bầu làm thôn trưởng, Bí thư Chi bộ Vinh Thái, rồi sau này làm Ban kiểm soát Bí thư Chi bộ huyện, được bầu vào huyện ủy viên...

Theo lời kể của bà Các, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, xã Vinh Thái nổi tiếng với hàng trăm trận đánh oanh liệt, lập nhiều chiến công lừng lẫy. Nơi đây từng là bãi chiến trường xưa ghi đậm dấu ấn chiến công của Trung đoàn 101 trong trận đánh tiêu diệt 950 tên địch, bắt sống 70 tên của trung đoàn Soskel Pháp vào đêm 25 rạng ngày 26/7/1951.

“Trận này Trung đoàn 101 vui mừng đón nhận thư khen ngợi của Bác Hồ: Một lần nữa, Bác vui mừng và thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ chiến sĩ đã đánh thắng trận ở Phú Vang. Thắng lợi ấy chứng tỏ bộ đội ta dũng cảm, và tiến bộ. Thắng lợi ấy một lần nữa nhờ sức mạnh đoàn kết và ủng hộ của nhân dân. Vậy các chú chuyển lời Bác cám ơn đồng bào”, bà Các bồi hồi kể lại.

Trận đánh này, tập thể xã Vinh Thái và 2 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Để kỷ niệm chiến công của quân và dân ta trên chiến trường TT-Huế trong những ngày đầu đánh Pháp, chính quyền địa phương lấy địa danh nơi xảy ra trận đánh oanh liệt ấy đặt tên cho một con đường ở thành phố Huế.

Đưa chúng tôi ngược dòng ký ức, bà Các nhớ lại, thời điểm đó Vinh Thái là vùng đất mà kẻ thù bao vây chằng chịt. Hàng ngày, bà đi tìm vị trí đào hầm giấu cán bộ an ninh. Khi đào được hầm, ngày ngày, bà lén lút đưa cơm, thức ăn tới cho cơ sở cách mạng của ta. Một vài lần, bọn lính ngụy bắt gặp bà đi tiếp tế lương thực cho cán bộ an ninh đã đến tận nhà đòi đốt, đánh đập.

Bà chịu những trận đòn tra khảo ác liệt, đánh đập dã man của kẻ thù nhưng vẫn một lòng, một dạ cam chịu cực hình để che chở cho những cán bộ an ninh của ta.

Kể cho chúng tôi về những kỷ vật một thời gắn bó, bà Các tiếp lời, một trận đánh vào cuối năm 1969, biết địch chuẩn bị càn quét, thả bom đạn vào các hầm bí mật của ta, bà Các đưa cơm đến sớm hơn nhưng không may bị địch phát hiện. Chúng lấy cơm, thức ăn, nước uống đổ từ trên đầu bà đổ xuống. Rồi, chúng kéo bà Các lên một Động cát trắng, dùng đùi đánh liên tục vào hai bên đầu. Bà đau đớn nhưng vẫn không la khóc mà chỉ ôm bụng xoa dịu đứa con trong bào thai gần 7 tháng tuổi. Sau khi đánh bà Các bất tỉnh, chúng bỏ mặc bà nơi Động cát trắng dưới ánh nắng gắt gao. Phải mấy giờ sau, người dân đi ra phá thì mới phát hiện bà nằm bất động.

Rồi sau đó, họ đưa bà lên trạm xá, cả làng ai cũng đau đớn vì đứa con trong bụng người phụ nữ kiên cường này đã tử vong. Dù vậy, vừa trở về từ trạm xá, bà Các vẫn tiếp tục bí mật bới cơm cho cán bộ, bộ đội ta. “Lần này, khi địch phát hiện, đã áp tải mệ ra ngoài nghĩa địa để bốc hài cốt. Lúc này, sức khỏe mình còn yếu nhưng khi cất bốc; chúng yêu cầu mình phải ngồi dưới gió và chỉ cho hít vào và cấm tuyệt đối không được thở ra. Rồi, địch biết nếu thả ra mình cũng sẽ nuôi giấu cán bộ nên bắt đưa lên giam cầm ở nhà tù Lao Thừa Phủ”.

Những ngày bị giam cầm trong tù, bà Các lần lượt nhận nhiều tin dữ là các anh ruột của mình đã hy sinh ở chiến trường...

Hướng về bàn thờ người chồng quá cố- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Văn Trĩ - nguyên quyền trưởng ban An ninh huyện Phú Vang, bà Các nước mắt tuôn trào nghẹn lời. Nói về sự hy sinh của đồng chí Lê Văn Trĩ, trong tâm thức của Thiếu tướng Phan Văn Lai- nguyên là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND (nay là Tổng cục Chính trị CAND), Chánh Thanh tra Bộ Công an xúc động: Lần ấy, tôi theo đường dây từ Hương Thủy về Phú Vang.

Người đầu tiên đón tôi từ trạm giao liên là đồng chí Lê Văn Trĩ. Dù chưa bao giờ gặp nhau, nhưng Trĩ đón tôi như người anh em ruột thịt, tay bắt mặt mừng. Trĩ muốn chia sẻ tình cảm với tôi, người đồng đội quê đất Bắc đã gác tình cảm riêng tư tình nguyện vào Nam chiến đấu. Tôi và Trĩ ngày càng gắn bó thân tình. Trĩ nguyên là một nhà giáo, bố đẻ là cán bộ lão thành cách mạng bị địch giết hại…Trĩ kiên trì gan góc với cuộc sống, lấy đất làm giường, lấy hầm làm nhà, giá rét lấy sương sưởi ấm, đói lòng lấy nước thay cơm.

Đêm 29/4/1970, trong một lần xuống cơ sở trở về hầm bí mật thì anh bị lọt vào ổ phục kích của địch, Trĩ đã một mình kiên quyết bắn trả lại kẻ địch đến viên đạn cuối cùng, diệt 2 tên, làm bị thương 3 tên địch và anh dũng hy sinh ở tuổi 33. Năm 2005, đồng chí Lê Văn Trĩ được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đồng chí Trĩ đã trở thành một biểu tượng về tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Giờ đã nằm sâu trong lòng đất mẹ nhưng đồng chí Trĩ vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân.

Từ ngày chồng- liệt sĩ Lê Văn Trĩ - hy sinh trong lần bị giặc càn ở xã đến nay đã 47 năm, ngày ngày bà Các chỉ biết ngó lên bàn thờ nhìn di ảnh chồng trong quẩn quanh khói nhang cho đỡ nhớ. Điều đó đủ nói lên lòng thủy chung của người vợ gần nửa thế kỷ đã một thân, một mình gánh gồng nuôi con.

Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thanh bình, những vết thương như đã lặn vào trong, làm thành những mảnh ghép của ký ức, lung linh vẻ đẹp chịu thương, chịu khó; yêu chồng, thương con của bà Các, của người phụ nữ Việt Nam.

Bà thực sự là một gương sáng giữa đời thường, một bông hoa đẹp trong rừng hoa Cựu chiến binh đẹp muôn mầu, muôn sắc, "tàn nhưng không phế" như lời của Bác Hồ nói về họ; biết coi trọng danh dự và làm mới mình cho cuộc sống hiện tại. Đôi dòng này cũng là sự tri ân với biết bao những người chiến sỹ đã anh dũng hy sinh cả thân mình hoặc một phần xương máu vì nền độc lập tự do của Tổ quốc!

Niềm vui lớn nhất của bà Các giờ đây là người con trai đầu của vợ chồng bà là Đại tá Lê Văn Vũ hiện đang đứng trong hàng ngũ của lực lượng ngành công an, nối tiếp truyền thống cách mạng của gia đình.

Vua Quang Trung nói: "Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên, lại cho tùy tiện làm việc. vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng”. Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng...
Đọc tiếp

Vua Quang Trung nói: "Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên, lại cho tùy tiện làm việc. vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng”. Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cứ rõ ràng. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kì làm nội ứng cho chúng, thì các ngươi làm sao mà cử động được ? Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy

1.Tìm những câu văn thể hiện yếu tố nghị luận trong đoạn văn ?

2.Những lập luận trong đoạn trích nhằm dẫn đến kết luận nào ?

0
“ - Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên, lại cho tùy tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng:“Quân thua chém Tướng”. Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng biến thì không...
Đọc tiếp

“ - Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên, lại cho tùy tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng:“Quân thua chém Tướng”. Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cứ rõ ràng. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kì làm nội ứng cho chúng thì các ngươi làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy.”                                   C1 .Bằng một đoạn văn diễn dịch ( 8-10 câu), hãy nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật “ta” được thể hiện qua đoạn trích trên. Trong đoạn văn có sử dụng lời dẫn trực tiếp (gạch chân và chú thích rõ).

 

0
4 tháng 5 2021

những ngôi sao xa xôi 

bài thơ về tiểu đội xe không kính

5 tháng 5 2021

Tên 2 tác phẩm viết về đề tài cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước :

+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính

+ Những ngôi sao xa xôi

19 tháng 10 2021

- Khó khăn :

+ Vũ khí trang bị của quân đội ta còn thua kém địch.

+ Bộ đội chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu.

+ Lực lượng quân sự ta yếu hơn địch , chưa được nước nào công nhận , giúp đỡ.

- Sáng tạo :

+ Bộ đội ta đã tích cực tăng gia sản xuất và tận dụng nguồn vật chất thu được của địch , từng bước giải quyết khó khăn về hậu cần cho lực lượng vũ trang.

+ Từ những vũ khí thô sơ ban đầu , bộ đội ta vừa chiến đấu , lấy vũ khí của địch đánh địch , vừa tự nghiên cứu cải tiến , chế tạo vũ khí mới.

 

P/s : Có thể ai đó sẽ cần câu trả lời này =))

( Khong cần cảm ơn UvU )

1 tháng 1 2021

Tham khảo nhé:

                                                       Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Nêu vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ.

II. Thân bài

1. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe

- Trước hoàn cảnh khó khăn bởi những chiếc xe không kính, tư thế của người lính lái xe: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước.

- Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:

Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt - từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.

2. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn

- Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính, nhưng thái độ thật thản nhiên như một điều bình thường: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.

- Cách nói “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn của người lính.

- Hành động của người lính trước khó khăn: “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy sự ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian khổ phải đối mặt.

3. Tình động đội của những người lính

- Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội”: những chiếc xe từ trong mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là những đồng đội cùng chung một lý tưởng.

- Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.

- “Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến họ phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả.

- “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột thịt. Giọng thơ đầy hồn nhiên, vui vẻ.

- Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng. Giấc ngủ chập chờn không yên.

- Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” - Điệp từ “lại đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.

- Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước. Niềm tin và trái tim nhiệt huyết vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

4. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc

- Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước…

- Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất.

- Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.

III. Kết bài

- Khẳng định lại vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.

- Tài năng khắc họa, miêu tả của Phạm Tiến Duật.

                                                            Bài làm

Nói đến Phạm Tiến Duật là nói đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ. Từng chiến đấu trong đội ngũ những người chiến sĩ vận tải dọc đường Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phương ra tiền tuyến. Thơ ông có giọng điệu khỏe khoắn tràn trề sức sống, tinh nghịch vui tươi mà giàu chất suy tưởng. Thật vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - một bài thơ tiêu biểu của Phạm Tiến Duật đã nêu lên hình tượng những người chiến sĩ lái xe vui vẻ tếu táo mà đĩnh đạc hiên ngang can đảm, thắm tình đồng đội bạn bè bền vững ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.

Bài thơ có nhan đề thật độc đáo ấy biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Đó chính là những con người dũng cảm đến ngang tàng mà giản dị, yêu đời và lạc quan rất mực.

Hình ảnh các anh gắn liền với hình những chiếc xe không kính. Đây là hình ảnh có thực. Bom đạn của chiến tranh ác liệt thời đó đã khiến cho những chiếc xe không chỉ không có kính mà còn trần trụi hơn nữa không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước:

                                 Không có kính không phải vì xe không có kính                                 Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

Nhà thơ miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên đó. Tuy công việc đầy hiểm nguy gian khổ, nhưng những anh chiến sĩ trẻ này dưới bom đạn triền miên vẫn luôn giữ một tư thế ung dung lạc quan và tươi trẻ. Phạm Tiến Duật trong bài thơ này đã miêu tả những cảm xúc rất cụ thể của họ khi ngồi trên chiếc xe không có kính.

                                          Ung dung buồng lái ta ngồi                                          Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng                                          Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.                                          Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim                                         Thấy sao trời và đột ngột cánh chim                                         Như sa, như ùa vào buồng lái.

Những câu thơ có nhịp điệu nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng đều đặn này gợi đến nhịp tiếng bánh xe bon bon chạy trên đường dài. Có thực sự ung dung nhìn đất, nhìn trời không chút lo âu hốt hoảng trước bom đạn cận kề thì anh chiến sĩ trẻ của chúng ta mới có thể nhìn và thấy đến đủ đầy như thế. Anh từ nhìn thấy gió, nhìn thấy con đường đến nhìn thấy cả sao trời và cánh chim... từ buồng lái đã vỡ hết kính chắn gió, gió vào xoa mắt đắng. Làn gió đã ùa vào như thể làm giảm đi vị đắng nơi khoé mắt. Mắt đắng vì mắt đã thức nhiều đêm để lái xe liên tục từ đêm này sang đêm khác. Tất cả thế giới bên ngoài ấy đã ùa vào buồng lái của anh với tốc độ làm chóng mặt. Con đường cũng vì thế như chạy ngược về phía người lái và trở thành: “Con đường chạy thẳng vào tim”.

Trong tư thế hiên ngang chủ động đó, người chiến sĩ lái xe đã bình thản coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm và gian khổ. Giọng điệu của anh thật ngang tàn, tếu táo:

                                              Không có kính, ừ thì có bụi                                              Bụi phun tóc trắng như người già.                                              Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.                                              Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

                                             Không có kính, ừ thì ướt áo.                                             Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời                                             Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.                                             Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!

Các anh còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn và lạc quan thể hiện qua cái nhìn: “Bụi phun tóc trắng như người già” và đặc biệt là tiếng cười sảng khoái đầy trẻ trung hồn nhiên và yêu đời: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” dẫu là sinh hoạt từ cái ăn, cái ngủ bình thường của các anh đều có tính tạm bợ, nhiều gian khổ:

                                         Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời                                         Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy                                         Võng mắc chông chênh đường xe chạy                                         Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

“Trời xanh thêm” phải chăng bởi vì lòng người đã phơi phới thêm, say mê thêm trước những chặng đường đã đi, những chặng đường đang đến.

Cái gì đã làm nên sức mạnh ấy? Đấy chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ Việt Nam thời đánh Mỹ:

                                      Không có kính rồi xe không có đèn                                      Không có mui xe, thùng xe có xước                                      Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước                                      Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Tuy bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng: “không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước” nhưng chiếc xe ấy vẫn chạy vì miền Nam phía trước, nghĩa là vẫn băng băng ra tiền tuyến. Tác giả đã lý giải về điều ấy thật bất ngờ mà cũng chí lý: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là trái tim nồng nàn yêu nước, sôi nổi yêu đời, một trái tim dũng cảm.

Tóm lại, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc hoạ hình tượng những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn đầy gay go thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thành công hơn ba mươi năm qua nhưng hình tượng tiêu biểu của một thế hệ trẻ lạc quan yêu đời, hồn nhiên, coi thường thiếu thốn gian khổ, sôi nổi, đầy quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt ngày nào vẫn chưa mờ phai trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta.

  
4 tháng 6 2019

Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống), lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Ðề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.

Vào canh năm ngày mồng 5 Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.

Ðề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Ðề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Ðề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, Ðức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu.

Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na Ðôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.

Nguyễn Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Ðề đốc Ô Ðại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước.

Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng.

23 tháng 4 2021

1. Lượm -Tố hữu

2. Những ngôi sao xa xôi -Lê Minh Khuê  

3. Bài thơ về tiểu đội xe không kính -Phạm Tiến Duật 

4. Những người đi tới biển -Thanh Thảo

5. Hòn đất -Anh Đức 

6. Lửa mùa hong áo -Lê Thị Mây 

X