Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Trong kho tàng truyền thuyết phong phú của Việt Nam, câu chuyện về Sự Tích Hồ Gươm (hay Hồ Hoàn Kiếm luôn chiếm một vị trí đặc biệt, không chỉ vì ý nghĩa lịch sử mà còn vì vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của nó. Truyền thuyết này gắn liền với vị anh hùng dân tộc Lê Lợi và cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược ở thế kỷ XV
Truyền thuyết kể rằng, khi đất nước đang chìm trong ách đô hộ của giặc Minh, lòng người căm phẫn và khao khát độc lập. Thấu hiểu ý trời và lòng dân, Đức Long Quân đã quyết định trao cho Lê Lợi một bảo vật thiêng liêng để giúp ông hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc: đó là Thanh Gươm Thần. Thanh gươm không được trao trực tiếp. Lưỡi gươm sáng chói được tìm thấy dưới đáy sông, còn chuôi gươm nạm ngọc lại được tìm thấy trên ngọn cây, tỏa ánh sáng rực rỡ, tất cả đều do người của Lê Lợi tình cờ nhặt được
khi lưỡi và chuôi hợp lại, thanh gươm trở nên hoàn chỉnh, mang sức mạnh phi thường. Nhờ có Thanh Gươm Thần, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, liên tiếp giành thắng lợi vang dội, cuối cùng đánh đuổi được giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Lê Lợi lên ngôi vua, lập nên nhà Hậu Lê, mở ra một thời kỳ thái bình thịnh trị
Saukhi đất nước yên bình, tong một lần nhà vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) dạo chơi trên chiếc thuyền rồng ở hồ Tả Vọng (tên cũ của Hồ Gươm), một Con Rùa Vàng lớn nổi lên mặt nước. Rùa Thần tiến đến gần thuyền vua, cất tiếng nói: “Xin bệ hạ hoàn trả lại gươm cho Long Quân!” Nhà vua hiểu ra rằng sứ mệnh của thanh gươm đã hoàn thành. Vua bèn rút gươm trao cho Rùa Vàng.Rùa Thần đón lấy gươm, ngậm vào miệng rồi lặn xuống đáy hồ. Kể từ đó, hồTả Vọng được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Trả Gươm) minh chứng cho lòng nhân ái, hòa bình của dân tộc và sự đồng lòng giữa Trời – Đất – Người trong công cuộc cứu nước
Truyền thuyết này không chỉ là một câu chuyện thần kỳ mà còn thể hiện tinh thần thượng võ và yêu chuộng hòa bình của người Việt, nhắc nhở các thế hệ về công lao của cha ông và ý nghĩa thiêng liêng của độc lập, tự do
Trong số các truyền thuyết cổ xưa của dân tộc Việt Nam, câu chuyện về Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ là một huyền thoại giải thích hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất của người Việt trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai.
Truyền thuyết kể rằng, vào đời vua Hùng thứ 18, có một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Vua Hùng muốn kén cho con gái một người chồng xứng đáng nên đã mở hội thi tuyển rể. Từ khắp nơi, nhiều chàng trai tài giỏi tìm đến, nhưng nổi bật nhất là hai vị thần: Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Sơn Tinh là một chàng trai khôi ngô, có tài lạ: chỉ cần vẫy tay, núi đồi trùng điệp sẽ mọc lên, cây cối xanh tươi. Thủy Tinh cũng không kém cạnh, chàng có khả năng hô mưa gọi gió, làm cho biển cả và sông ngòi cuộn trào. Cả hai đều tài giỏi ngang sức ngang tài, khiến Vua Hùng khó lòng lựa chọn.
Cuối cùng, Vua Hùng đặt ra điều kiện thách cưới: "Sáng sớm hôm sau, ai mang đến sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến trước, người đó sẽ được cưới Mị Nương."
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló rạng, Sơn Tinh đã mang đầy đủ sính lễ đến trước. Vua Hùng giữ lời hứa, gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thần Núi rước vợ về núi Tản Viên.
Khi Thủy Tinh đến nơi, thấy Mị Nương đã theo chồng, chàng vô cùng giận dữ. Cảm thấy bị sỉ nhục, Thủy Tinh đã nổi cơn lôi đình, dốc toàn lực để báo thù. Thần Nước hô mưa, gọi gió, làm nước biển dâng cao, dìm chìm đồng bằng, muốn nhấn chìm núi Tản Viên để cướp lại Mị Nương.
Trước sức mạnh kinh hoàng của nước, Sơn Tinh không hề nao núng. Thần Núi dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên bao nhiêu, Sơn Tinh đắp đất, nâng núi cao lên bấy nhiêu. Cuộc chiến kéo dài ròng rã suốt mấy tháng trời. Cuối cùng, sức Thủy Tinh kiệt dần, đành phải rút lui.
Tuy nhiên, mối thù này không bao giờ dứt. Hàng năm, cứ đến mùa mưa bão, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh để đòi Mị Nương, gây ra cảnh lũ lụt khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Và năm nào cũng vậy, Sơn Tinh vẫn chiến thắng, giữ vững bờ cõi và bảo vệ cuộc sống của người dân.

Trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, không có câu chuyện nào lại gắn bó sâu sắc với Thủ đô Hà Nội và tinh thần yêu nước hơn Truyền thuyết Hồ Gươm (hay Hồ Hoàn Kiếm). Truyền thuyết này không chỉ giải thích nguồn gốc của một di tích lịch sử mà còn tôn vinh chiến thắng vĩ đại và phẩm chất cao đẹp của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi.
Câu chuyện bắt đầu vào thời kỳ đất nước chìm trong ách đô hộ của giặc Minh. Khi đó, thủ lĩnh Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đang gặp vô vàn khó khăn, thiếu vũ khí và lương thực. Long Quân (Vua Rồng), cảm thương trước cảnh lầm than và thấy được ý chí quật cường của Lê Lợi, đã quyết định trao tặng một thanh gươm thần để giúp ông đánh đuổi quân xâm lược.
Thanh gươm thần này không được trao trực tiếp. Thay vào đó, một lưỡi gươm sáng chói được tìm thấy trong lưới của ngư dân Lê Thận. Sau đó, một chuôi gươm nạm ngọc lại được chính Lê Lợi tìm thấy dưới gốc cây đa. Khi tra vào, lưỡi gươm và chuôi gươm khớp nhau một cách kỳ diệu, tạo thành thanh gươm báu mang tên ''Thuận Thiên''. Từ khi có gươm thần, nghĩa quân Lam Sơn như được tiếp thêm sức mạnh, liên tục giành thắng lợi và cuối cùng đánh đuổi được giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc.
Sau khi đất nước thái bình, Lê Lợi lên ngôi vua (Lê Thái Tổ). Một hôm, nhà vua đang đi thuyền dạo chơi trên chiếc hồ lớn ở kinh thành. Bỗng nhiên, một con Rùa Vàng lớn nổi lên mặt nước, tiến về phía thuyền Rồng. Rùa Vàng cất tiếng nói rõ ràng: "Xin bệ hạ hoàn trả gươm thần cho Long Quân!".
Nhà vua hiểu rằng sứ mệnh của thanh gươm đã hoàn thành, chiến tranh đã kết thúc, và lòng nhân ái mới là thứ cần thiết để xây dựng đất nước. Vua Lê Lợi liền rút gươm trao trả cho Rùa Vàng. Rùa Vàng ngậm thanh gươm báu rồi lặn xuống đáy hồ và biến mất. Kể từ đó, chiếc hồ được đặt tên là Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Trả Gươm), còn được gọi là Hồ Gươm.
Truyền thuyết Hồ Gươm là một câu chuyện đẹp không chỉ về lòng dũng cảm chiến đấu mà còn về tinh thần hòa bình. Nó khẳng định rằng, vũ khí thần thánh chỉ cần thiết khi đất nước bị xâm lăng. Khi độc lập đã được thiết lập, thanh gươm phải được trao trả, biểu tượng cho việc dân tộc ta gác lại chiến tranh, tập trung vào xây dựng cuộc sống thái bình. Hồ Gươm và tháp Rùa vẫn đứng đó giữa lòng Hà Nội, như một lời nhắc nhở vĩnh cửu về truyền thống yêu nước, giữ gìn hòa bình và sự kết nối thiêng liêng giữa con người với đất trời.

Câu 1: Tác hại của thói bắt chước đối với con người trong cuộc sống
Dàn ý:
- Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về thói quen bắt chước. Bắt chước có thể là một phần tự nhiên của quá trình học hỏi, nhưng bắt chước mù quáng lại là một thói quen tiêu cực.
- Nêu vấn đề chính: Thói bắt chước mù quáng mang lại nhiều tác hại nghiêm trọng cho con người.
- Thân bài:
- Làm mất đi bản sắc và cá tính: Khi bắt chước, con người không còn là chính mình. Họ sống theo khuôn mẫu của người khác, dần dần đánh mất những nét riêng, sở thích và giá trị cá nhân. Đây là biểu hiện của sự thiếu tự tin và hèn nhát trong việc thể hiện bản thân.
- Gây ra sự thất bại: Điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người là khác nhau. Bắt chước cách làm của người khác mà không có sự cân nhắc, sáng tạo sẽ rất dễ dẫn đến thất bại. Chẳng hạn, một người khởi nghiệp bắt chước mô hình kinh doanh của một công ty lớn mà không xem xét thị trường, vốn và năng lực của mình sẽ khó thành công.
- Gây cản trở sự phát triển: Khi chỉ biết bắt chước, con người sẽ không còn động lực để tư duy, sáng tạo và tìm tòi cái mới. Xã hội sẽ dậm chân tại chỗ nếu ai cũng đi theo lối mòn cũ.
- Mất đi sự tôn trọng của người khác: Một người chỉ biết bắt chước thường không được đánh giá cao, vì họ không có ý kiến độc lập và không thể tự đưa ra quyết định.
- Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề: Thói bắt chước mù quáng là một rào cản lớn đối với sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội.
- Nêu giải pháp: Mỗi người cần học cách sống là chính mình, biết lắng nghe, học hỏi nhưng phải có chọn lọc và sáng tạo để tạo nên dấu ấn riêng.
Câu 2: Kể lại một trải nghiệm có ý nghĩa sâu sắc đối với em
Dàn ý:
- Mở bài:
- Giới thiệu về trải nghiệm đó. Nêu cảm nhận ban đầu của bạn về nó. Ví dụ: "Trong cuộc đời mỗi người, có những khoảnh khắc tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc..." hoặc "Đó là một buổi chiều mưa, nhưng lại là lúc tôi nhận ra giá trị của lòng nhân ái..."
- Thân bài:
- Bối cảnh: Kể lại bối cảnh xảy ra câu chuyện: thời gian, địa điểm, những nhân vật liên quan.
- Diễn biến:
- Tường thuật lại toàn bộ câu chuyện theo trình tự thời gian.
- Tập trung vào những chi tiết quan trọng, gây ấn tượng mạnh. Dùng các từ ngữ miêu tả sinh động để người đọc cảm nhận được cảm xúc của bạn khi đó (vui, buồn, thất vọng, bất ngờ...).
- Điểm mấu chốt: Sự kiện nào đã làm thay đổi suy nghĩ, cảm xúc của bạn?
- Ý nghĩa: Phân tích sâu sắc ý nghĩa của trải nghiệm đó.
- Bạn đã học được điều gì từ câu chuyện? (ví dụ: sự kiên trì, lòng biết ơn, tình yêu thương, sự tha thứ...)
- Trải nghiệm đó đã thay đổi bạn như thế nào? (ví dụ: giúp bạn tự tin hơn, biết trân trọng cuộc sống hơn, thay đổi cách nhìn về một vấn đề nào đó...).
- Kết bài:
- Tổng kết lại giá trị của trải nghiệm.
- Khẳng định lại rằng trải nghiệm đó sẽ mãi là một bài học quý giá, một kỷ niệm không thể quên.

“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
(Bài học đầu cho con, Đỗ Trung Quân)
Quê hương là một phần quan trọng của mỗi người. Dù có đi xa đến đâu, mỗi lần về thăm quê sẽ luôn để lại những kỉ niệm đẹp đẽ.
Mỗi năm, gia đình của em đều về quê vào dịp lễ. Vào nghỉ hè năm lớp một, em đã được về thăm quê ngoại. Buổi sáng hôm ấy, em dậy thật sớm. Sau đó, gia đình của em ra bến xe. Chuyến xe khởi hành lúc tám giờ sáng. Thời gian đi khoảng hơn hai tiếng là về đến nơi. Xe chỉ đỗ ở ngoài đường quốc lộ, nên mọi người phải đi bộ vào trong làng. Bố mẹ chỉ ở lại hôm chủ nhật, rồi sau đó phải về thành phố để đi làm. Còn em được ở lại cùng ông bà. Kết thúc kì nghỉ hè, em mới phải trở lại thành phố.
Những ngày sau đó thật tuyệt vời. Mỗi buổi sáng, em thức dậy từ sớm rồi đi tập thể dục cùng ông ngoại. Không khí ở làng quê thật trong lành, khác hẳn với thành phố. Tập thể dục xong, hai ông cháu trở về nhà ăn sáng. Sau đó, em sẽ cùng với các bạn trong xóm ra cánh đồng chơi. Chúng em cùng nhau chơi ô ăn quan, cướp cờ, thả diều… Toàn những trò chơi dân gian mà ở thành phố em chưa từng được chơi.
Khi ông mặt trời đã lên cao, cả nhóm trở về nhà. Em được thưởng thức những món ăn thôn quê của bà ngoại. Đến khi chiều xuống, những tia nắng chói chang dần yếu ớt rồi biến mất. Cơn gió thổi mát rượi như xua tan đi cái oi nóng của ngày hè. Em lại theo ông ngoại ra vườn. Vườn cây của ông thật rộng biết bao. Trong vườn trồng rất nhiều cây ăn quả. Em đã giúp ông tưới nước cho cây cối. Sau đó, ông còn hái rất nhiều loại quả cho em. Đến tối, em và bà ra ngoài sân ngồi hóng mát. Em vừa thưởng thức hoa quả, vừa được nghe bà kể chuyện. Sự yên tĩnh của làng quê khiến em cảm thấy thích thú.
Hôm sau, em còn được ra đồng thu hoạch thóc với bác Năm và chị Thương. Bác là anh trai của mẹ em. Nhà bác nằm bên cạnh nhà ông bà ngoại. Còn chị Thương là con gái út của bác. Chị đang là học sinh lớp 10. Những lúc không phải đi học, chị sẽ ra đồng làm việc giúp đỡ bố mẹ. Chỉ là công việc thu hoạch lúa nhưng cũng thật khó khăn, mệt nhọc. Nhờ vậy, em đã thấu hiểu được nỗi vất vả của các bác nông dân.
Ba tháng hè trôi qua thật nhanh. Em đã có rất nhiều kỉ niệm đẹp đẽ, quen thêm được nhiều người bạn ở dưới quê. Khoảng thời gian ở cùng với ông bà ngoại thật vui vẻ. Khi trở về thành phố, em còn kể cho các bạn trong lớp mình nghe.
Chuyến về thăm quê của em thật ý nghĩa. Em mong rằng sẽ có thêm nhiều chuyến về thăm quê hơn nữa.
Tối hôm ấy, tôi đã rất khó ngủ, háo hức. Vì ngày mai, tôi sẽ cùng gia đình đi về quê ăn Tết cùng họ hàng.
Vào buổi sáng sớm ngày 29 Tết, tôi cùng gia đình lăn bánh về quê. Trên xe có rất nhiều tiếng nói, tiếng cười. Mọi người cùng kể lại những chuyện vui hồi năm ngoái. Ai cũng nhớ lại những khoảnh khắc đẹp của mình. Tôi về quê không chỉ trong sự chào đón của ông bà ngoại. Mà còn có cả những người hàng xóm xung quanh. Con người ở quê tôi đều giản dị, thật thà mà hiếu khách, gần gũi. Tôi còn nhớ buổi sáng đầu tiên, tôi cùng ông ra vườn dạo chơi. Khu vườn nhà rộng lớn với biết bao cây trái. Những khóm rau xanh mướt và những hàng trái cây như táo, xoài, cam… Bầy chim hót lanh lảnh trên ngọn cây cao. Ngồi trong vườn, tôi lắng nghe những âm thanh quen thuộc của làng quê. Sau đó, hai ông cháu còn tưới tắm cho cây cối trong vườn. Buổi trưa, tôi được ăn một bữa no nê, toàn những món ăn thôn quê nhưng ngon vô cùng. Buổi chiều, tôi cùng chị ra đồng để thả diều. Gió trời lồng lộng khiến diều của tôi bay cao vun vút. Tối đến, cả nhà cùng ăn bữa cơm và cùng nhau xem phim trên ti-vi. Đến đêm, ai về phòng của người nấy, tôi ngủ cùng bố mẹ và chị tôi.
Sáng sớm hôm 30 Tết, con gà trống reo lên thật to" ò ó o" đánh thức mọi người dậy. Mẹ và bà đã dậy từ sớm để đi mua thức ăn. Khi mọi người thức dậy, đi xuống bếp đã thấy thức ăn được bày biện trên bàn rất đẹp mắt. Ăn xong, tôi phụ mẹ và bà dọn dẹp bát đũa. Trong khi tôi đang dọn dẹp cùng mẹ và bà. Bố, chị và ông đã tranh thủ gói bánh chưng để cúng ông bà, tổ tiên. Xong việc, cả nhà cùng quây quần bên nồi bánh chưng, trò chuyện với nhau. Đến tối, gia đình tôi cùng đón giao thừa. Ông bà đã chuẩn bị cho chị em tôi 1 bất ngờ, đó là pháo bông. Tôi cùng chị để pháo bông ra nơi bằng phằng. Bố đốt lửa cho pháo bông. "Boom" tiếng nổ làm tôi rất vui. Tuy có chút sợ hãi, những nó khiến tôi đắm chìm trong cuộc vui của gia đình. Chơi xong, cả nhà tôi cùng thắp nhang lên bàn thờ ông bà, cầu mong gia đình vui vẻ, khỏe mạnh và luôn hạnh phúc. Xong việc cả nhà cùng đi ngủ.
Vào các ngày 1,2,3 Tết Nguyên Đán, tôi cùng gia đình đi thăm họ hàng, chúc Tết, nhận lì xì.
Chuyến về quê đã kết thúc, gia đình em đã có rất nhiều tấm ảnh đẹp. Tôi cũng có thêm được nhiều trải nghiệm cho bản thân, với kỉ niệm thật đẹp.