K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 10 2020

Nếu như trong các thế kỉ trước chủ nghĩa yêu nước là đề tài chiếm đa phần các sáng tác thì sang đến thế kỉ XVIII, ngòi bút của các tác giả trung đại tập trung về giá trị nhân đạo, với lòng cảm thương sâu sắc số phận của người phụ nữ. Họ - những người phụ nữ hội tụ đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh nhưng lại phải chịu số phận hết sức đắng cay. Đó là nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ, người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương. Mỗi nhân vật trữ tình mang một nét riêng, nhưng ở họ đều là hình ảnh tiêu biểu nhất cho số phận cũng như vẻ đẹp người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

Trước hết họ là những người phụ nữ có vẻ đẹp ngoại hình, họ đều là những người phụ nữ xinh đẹp. Là vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi, đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Còn Vũ Nương chỉ được khái quát bằng câu văn rất ngắn: “tính đã thùy mị, nết na lại thêm phần tư dung tốt đẹp”. còn nàng Kiều, được Nguyễn Du ưu ái hơn cả, ông dùng những lời thơ đẹp đẽ nhất, tinh tế nhất để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của nàng:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Nguyễn Du đã lấy những hình ảnh đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả nàng Kiều, đó là đôi lông mày lá liễu như dáng núi mùa xuân, là đôi mắt có hồn, ẩn chứa trong đó là cả thế giới nội tâm đa dạng, phong phú.

Những người con gái ấy không chỉ là đẹp người mà họ còn đẹp nết, đẹp về tâm hồn tính cách. Nàng Vũ Nương đoan trang, hiền thục, nết na đã khiến cho Trương Sinh cảm mếm về đức hạnh mà dùng trăm lạng vàng để lấy nàng về. Khi về làm dâu, nàng biết chồng có tính hay ghen và phòng ngừa quá sức nên luôn giữ gìn khuôn phép, đúng mực trong cách hành xử để hai vợ chồng không rơi vào cảnh bất hòa. Không chỉ vậy nàng còn là một người con dâu hiếu thảo, mẹ chồng luôn được nàng chăm sóc hết mực, khi bà ốm đau nàng thường dùng những lời nhẹ nhàng khuyên lơn để mẹ cố gắng ăn cháo, uống thuốc. Có mấy ai tạo được mối quan hệ mẹ chồng, nàng dâu tốt đẹp đến thế. Đến khi mẹ chồng chết nàng cũng lo tang ma chu toàn. Hơn thế, nàng còn là một người phụ nữ hết sức đảm đang. Chồng đi ra trận, nàng ở nhà một mình nuôi con, quán xuyến công việc gia đình một cách toàn vẹn nhất. Để con không phải chịu thiếu thốn tình cha, nàng còn tự chỉ vào bóng mình, để bé Đản được sống trọn vẹn trong tình yêu thương của cha mẹ. Có thể thấy Vũ Nương là hiện thân đầy đủ nhất của vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.

Nàng Kiều lại mang trong mình vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn rất đỗi nhạy cảm. Tài năng của nàng đủ cầm – kì - thi – họa, tài nào nàng cũng đạt đến độ xuất sắc. Nhưng nổi bật nhất chính là tài đàn, những bản đàn của nàng làm say đắm biết bao người. Cung đàn bạc mệnh ấy vừa cho thấy tâm hồn nhạy cảm, vừa như một dự báo cho số phận tương lai của chính nàng. Không chỉ vậy, trong lúc gia đình gặp nguy biến, nàng đã sẵn sang xả thân bán mình chuộc cha và em:

Rẽ để cho thiếp bán mình chuộc cha

Và ngay cả những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích nàng vẫn không thôi lo nghĩ cho cha mẹ, tuổi cao sức yếu không có ai chăm sóc: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai biết mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Trong trường hợp của Kiều, nàng là người đau khổ nhất, nhưng gạt đi nỗi đau cá nhân, Kiều vẫn một lòng nghĩ về những người thân yêu của mình. Đó là biểu hiện của trái tim nhân hậu, vị tha, bao dung cao cả.

Mặc dù, hội tụ đầy đủ vẻ đẹp về hình thức và tâm hồn, những tưởng những người phụ nữ ấy sẽ được hưởng cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng không, cả cuộc đời họ là những chuỗi tai ương nối tiếp nhau,. Quả đúng như Nguyễn Du đã từng tổng kết: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Người con gái trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương dù có vẻ đẹp tròn trịa tràn đầy sức sống, có tâm hồn thủy chung, son sắt nhưng cuộc đời lại lênh đệnh, phụ thuộc:

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Số phận của nàng Vũ Nương cũng chẳng khác gì cô gái kia. Lấy Trương Sinh không phải vì tình yêu, hơn thế lại có sự phân biệt về đẳng cấp. Ngay từ đầu đã báo hiệu một cuộc hôn nhân không lấy gì làm viên mãn. Khi nàng lấy chồng chưa bao lâu, chưa thỏa tình gối chăn thì chồng nàng bị gọi ra trận. Nàng sống thiếu thốn tình yêu thương lại phải một mình cáng đáng gia đình, nuôi con khôn lớn, chăm mẹ chồng già yếu. Nhưng tất cả nỗi đau về thể xác đó không đau đớn bằng việc Trương Sinh rũ bỏ, vu cho nàng cái tội mà nàng không có. Bị chồng nghi ngờ thất tiết, Vũ Nương đau đớn khôn cùng, và tận cùng của nỗi đau nàng đã lấy cái chết để giải thoát mình và chứng minh sự trong sạch của bản thân. Nàng chết đi, được Linh Phi cứu, sống cuộc đời bất tử song vẫn đầy bất hạnh, bởi tâm hồn nàng vẫn luôn hướng về ngôi nhà nhỏ, nơi có chồng và con nàng. Sống những chuỗi ngày dài, nhớ về quê hương, chẳng phải còn đáng thương hơn gấp bội đó sao.

Số phận nàng Kiều cũng bất hạnh không kém, sau khi bán mình chuộc cha, cuộc đời nàng bước vào mười lăm năm nổi nênh, sóng gió. Ngày Mã Giám Sinh đến “Đắn đo cân sắc cân tài” ngã giá, lòng nàng đau như thắt lại “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Những giọt nước mắt tủi cho thân phận bọt bèo của chính mình. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong cảnh cô đơn, lặng lẽ, nàng nhớ về Kim Trọng – mối tình đầu trong trắng và đau đớn khi đã phụ bạc chàng. Nàng nhớ về cha mẹ, xót thương vì không thể chăm sóc cha mẹ khi họ già yếu. Và đặc biệt là dự cảm của nàng về số phận của mình khi ở lầu Ngưng Bích: “Buồn trông của bể chiều hôm/.../ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Bức tranh khung cảnh dữ dội, gào thét như báo hiệu trước cuộc đời đầy sóng gió của nàng.

Bằng tất cả tình yêu thương và lòng trân trọng, các tác giả đã cho người đọc thấy vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng ẩn sau đó còn cho thấy số phận đầy sóng gió bất hạnh. Các tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng, cướp đoạt hạnh phúc của họ; đồng thời cũng là tiếng nói nhân đạo, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với người phụ nữ.

25 tháng 10 2020

Giới thiệu về bối cảnh xã hội

Để tìm hiểu về hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại, trước tiên ta cần nắm được bối cảnh xã hội thời bấy giờ. Có thể thấy, thời kì văn học trung đại là phân khúc đầu tiên của ba thời kì phát triển của văn học viết Việt Nam. Nó bắt đầu hình thành và phát triển trong khoảng mười thế kỉ (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) trong bối cảnh văn hóa, văn học vùng Đông Á, Đông Nam Á có quan hệ với nhiều nền văn học trong khu vực. Trong thời kì này, các nhà văn, nhà thơ cũng làm rất tốt vai trò của người phản ánh hiện thực cuộc sống, bên cạnh đó còn thể hiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với quan hệ quốc gia dân tộc, với xã hội và với chính bản thân mình.

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại qua một số tác phẩm

Để làm tròn những vai trò ấy, các tác giả đã cố gắng đặt tác phẩm của mình vào trong bối cảnh xã hội. Đối với văn học trung đại, khi đặt vào phông nền của thế kỉ X – đến hết thế kỉ XIX, các nhà văn, nhà thơ đã tái hiện khá chân thực về một giai đoạn mà lịch sử, xã hội có rất nhiều biến động.

Ở thế kỉ X, sự kiện Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam. Sự kiện đã giúp kết thúc ngàn năm đô hộ của giặc phong kiến phương Bắc, chính thức mở ra một thời kì độc lập, tự chủ cho dân ta. Về mặt chính trị, trong giai đoạn này chế độ phong kiến Việt Nam ra đời và phát triển và mang đặc trưng của thời kì tam giáo đồng nguyên đã góp phần thiết lập bộ máy quản lí nhà nước có chính sách và quy củ.

Tuy nhiên, sau chiến thắng oanh liệt của vị tướng tài nhà Ngô, dân ta không chỉ dốc sức trong việc xây dựng đất nước mà lại phải tiếp tục hành trình rất dài trên sự nghiệp phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh với rất nhiều gian khó về sau.

Sang thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII, nhà nước phong kiến triều Lê được ra đời và tồn tại rất thịnh trị trong lịch sử nước nhà. Nhà Lê lấy Nho giáo làm tôn chỉ để xây dựng chế độ nhưng đến thế kỉ XVIII thì có dấu hiệu khủng hoảng và sụp đổ không lâu sau đó.

Từ thế kỉ XVII, sau sự kiện hai tập đoàn phong kiến đàng Trong đàng Ngoài và quân xâm lược Xiêm, Thanh bị đánh bại bởi nghĩa quân Tây Sơn, nhà Tây Sơn lên nắm quyền nhưng sau đó lại bị lật đổ bởi nhà Nguyên. Những tưởng dân ta sẽ được bình yên sau đó nhưng sự thật thì ở giai đoạn cuối thế kỉ XVII, nhưng vua Nguyễn lại ăn chơi xa xỉ khiến cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, lầm than.

Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã cho thấy sự suy tàn rõ rệt của chế độ phong kiến nhưng lại chưa sụp đổ hoàn toàn. Sau đó, việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, người dân phải sống trong cảnh đất nước có sự tồn tại của chế độ xã hội nửa phong kiến nửa thực dân.

Như vậy có thể thấy, song hành cùng với những biến động của lịch sử, văn học Việt Nam trong giai đoạn này cũng sẽ phần nào cho thấy bức tranh về đời sống của con người Việt Nam. Đó là một cuộc sống hiện hữu sự kiên cường, bất khuất của dân tộc với tinh thần yêu nước mạnh mẽ nhưng cũng đầy rẫy những bất hạnh, đau thương và mất mát đối với con người.

Đặc biệt với người phụ nữ, họ không chỉ phải đối diện với hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt mà còn bị áp bức bởi những thế lực tàn bạo trong xã hội, mặc dù vậy họ vẫn cho thấy những nét đẹp cao quý của bản thân. Điều này sẽ được thể hiện qua ngòi bút của nhiều tác giả của thời đại nhưng tiêu biểu nhất có thể kể đến là trang viết của các tác giả như Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại qua một số tác phẩm

Người phụ nữ mang vẻ đẹp về ngoại hình, tài năng, nhân cách

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại mang vẻ đẹp ở cả ngoại hình lẫn tài năng và nhân cách. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương đã được tác giả thái độ rất trân trọng khi dành những lời giới thiệu về nàng đầy thiện cảm: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.

Chính vì những nét đẹp đó của Vũ Nương mà Trương Sinh đem lòng yêu mến và “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Qua lời giới thiệu của tác giả, có thể cảm nhận được vẻ đẹp của Vũ Nương rất đỗi thuần khiết, trong sáng, nàng xuất hiện như một mẫu hình, mực thước của vẻ đẹp người con gái truyền thống trong quan niệm của dân tộc ta.

Đến với trang thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại lại được đặc tả bằng những nét vẽ hoàn mĩ, tràn đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Chỉ với hai tình từ “trắng”, “tròn”, nữ sĩ Xuân Hương cũng phác họa một bức chân dung của người phụ nữ với vẻ đẹp viên mãn, đầy đặn. Trong một tác phẩm khác, bà cũng lại một lần nữa tái hiện nét đẹp sáng tươi, trong trắng của người con gái không rõ bao nhiêu tuổi mà cứ thấy ngời lên sắc xuân xanh:

“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?

Chị cũng xinh mà em cũng xinh

Đôi lứa như in tờ giấy trắng

Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.”

(“Đề nhị mỹ nhân đồ” – Hồ Xuân Hương)

Khi đề cập tài năng miêu tả vẻ đẹp chân dung, thật thiếu sót nếu không kể đến Nguyễn Du vì thông qua những dòng mở đầu ông viết về hai nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều, thật sự đại thi hào đã để lại trình diện trước mắt người đọc tuyệt phẩm của vẻ đẹp. Vân đã rạng ngời:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Kiều lại càng thêm bừng sáng:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”

Không chỉ đẹp về ngoại hình, nhân vật nữ của văn học trung đại còn đẹp về nhân cách lẫn tài năng, đây mới là những điều khiến nét vẽ về bức chân dung của người phụ nữ trở nên hoàn thiện. Chẳng hạn như trong lời giới thiệu về Vũ Nương, tác giả cũng đã giới thiệu về tính cách của Vũ Nương trước khi nhắc đến “tư dung tốt đẹp” của nàng.

Trong “Bánh trôi nước”, hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại hiện lên với nhân cách về sự son sắt, thủy chung, trước sau như một được thể hiện bằng câu thơ: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Và những nét đẹp về những người phụ nữ này cũng thường đi liền với tài năng của họ mà Thúy Kiều chính là một trong những gương mặt đại diện của sự toàn sắc, toàn tài, bao gồm cả cầm, kì, thi, họa:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”

Người phụ nữ chịu nhiều bi kịch, đắng cay của cuộc đời

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn hiện lên với qua bi kịch “hồng nhan bạc phận”. Dù xinh đẹp, tài năng và có những phẩm chất quý giá, thế nhưng họ cũng là nạn nhân của biết bao bi kịch cuộc đời để rồi phải ngậm đắng, nuốt cay. Đó là bi kịch của chế độ xem trọng nam giới, còn nữ nhi xếp vào thứ yếu. Thế nên trong hôn nhân, họ phải chịu sống kiếp làm lẽ và hạnh phúc trọn vẹn đối với họ mà nói dường như chỉ là một định nghĩa quá mong manh.

Họ cũng hiểu, số phận đó không chỉ của riêng một người nào mà là số kiếp chung của tất cả những người phụ nữ khi sống trong xã hội trọng nam, khinh nữ. Họ không trách những người phụ nữ khi chia sớt hạnh phúc của mình, có trách là trách quan niệm của lễ giáo khắc nghiệt:

“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm chừng mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng

Cầm bằng làm mướn mướn không công”

(“Lấy chồng chung” – Hồ Xuân Hương)

Nếu được chồng yêu thương, thì họ lại phải chịu cảnh xa cách, chia lìa bởi hoàn cảnh chiến tranh. Ngày tiễn biệt thấy sao đầy lưu luyến:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”

(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)

Với người phụ nữ, khi được sống trong sung túc nhưng hạnh phúc chỉ là những gì chắp vá, tạm bợ thì họ cũng chẳng thiết tha. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn hiện lên với người cung nữ trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều. Dù sống trong nhung lụa nhưng đối với họ đó lại là những tháng ngày vô cùng buồn bã, cô đơn vì sự lạnh lùng, ruồng bỏ của vua. Tuổi xuân của họ cứ hết ngày này qua tháng khác bị chôn vùi trong cung cấm với nỗi hờn tủi, xót xa:

“Một mình đứng tủi ngồi sầu,

Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.”

“Hoa này bướm nỡ thờ ơ,

Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng.”

(“Cung oán ngâm” – Nguyễn Gia Thiều)

Và sau khi tiễn người chinh phu trong quyến luyến, người chinh phụ hiện lên với tâm trạng cô đơn, lẻ loi đằng đẵng. Không ai có thể chia sẻ nỗi lòng cùng nàng, trong gian phòng đầy ắp những thổn thức, nhớ thương chỉ còn một ngọn đèn leo lét bầu bạn nhưng cũng không thể giúp nàng khôn nguôi nỗi nhớ:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

Buồn rầu nói chẳng nên lời

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)

Người chinh phu có ra đi, nhưng dẫu sao cũng còn có thể hi vọng có ngày trở về cùng người vợ yêu quý trong đoàn viên. Còn Vũ Nương trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nàng đã đợi được ngày vợ chồng đoàn tụ sau những ngày dài chồng đi tòng quân nơi xa xứ, nhưng hạnh phúc lại chẳng tày gang khi Trương Sinh lại là một người chồng đa nghi cho tiết hạnh của nàng. Mặc cho Vũ Nương hết lời minh oan nhưng Trương Sinh vẫn sắt đá không hề lay chuyển. Chính vì vậy, vợ chàng phải tìm đến cái chết như một sự chứng giám cho phẩm giá trong sạch của mình.

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn thể hiện qua những lời tự sự về cuộc đời Kiều qua những trang viết của Nguyễn Du, ta càng đau đớn hơn khi nàng phải sống lưu lạc đến tận mười lăm năm trời, tiếc nuối hơn đó là mối tình như hoa như mộng của nàng với Kim Trọng phải chịu cảnh trâm gẫy gương tan. Bi kịch của Kiều là bi kịch được tạo nên bởi sự dồn đuổi của các thế lực độc ác, nhẫn tâm của xã hội nàng sống. Xã hội đầy áp bức, bất công đó đã khiến cho nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn mất đi niềm hạnh phúc mà nàng xứng đáng có được.

Để rồi, sau ngần ấy năm hi sinh vì gia đình, ngần ấy năm tủi nhục, ngày nàng trở về, trong nàng luôn có sự dằn vặt, đau đớn khi nhận hết mọi lỗi lầm phụ bạc người yêu về phía mình. Tình yêu đẹp đẽ một thời tuổi xuân, nay nàng xin chàng hãy xem là duyên “cầm cờ”. Những lời Kiều nói về phận đời của mình với Kim Trọng nghe mà nghẹn ngào, chua xót:

“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,

Ong qua, bướm lại, đã thừa xấu xa.

Bấy chầy gió táp mưa sa,

Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.

Còn chi là cái hồng nhan?

Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?”

Người phụ nữ ý thức về phẩm giá của mình và có khát vọng vươn lên

Dù bị bi kịch cuộc đời bủa vây có những lúc tưởng chừng như không còn lối thoát nhưng ở những người phụ nữ trong văn học trung đại vẫn luôn cho thấy ở họ có một ý thức sâu sắc về phẩm giá của mình cũng như khát vọng vươn lên để có được một cuộc sống tươi sáng hơn. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại với vẻ đẹp ấy còn sáng lên qua nàng Kiều trong lần bị đưa đến nhà chứa của Tú Bà, tình cảnh trớ trêu khiến nàng phải sống và chứng kiến cảnh “bướm lả ong lơi”, Kiều đã khóc thương cho bản thân mình:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa.”

Và mặc cho lớp bùn hôi tanh có vùi dập, Kiều vẫn giữ vững tấm lòng sáng trong, tâm hồn thanh khiết:

“Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”

Còn người cung nữ nơi cung cấm, ý thức về thân phận, về phẩm giá đôi khi như có lúc như hóa thành hành động muốn tự tháo cũi sổ lồng để giải thoát cho bản thân:

“Đang tay muốn dứt tơ hồng,

Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”

Đó là ước vọng, mong muốn chính đáng và thông qua hành động ấy, người phụ nữ như đã cất lên tiếng nói phản kháng trước những thế lực tàn nhẫn đã vùi hoa, dập liễu, khiến họ phải sống trong những tháng ngày triền miên đau thương, tủi hổ.

Nhận xét hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

Bằng những sáng tác cả về chữ Hán và chữ Nôm, bằng những thể loại đa dạng (truyện, thơ, ngâm khúc…), nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật, các tác giả đã gửi gắm vào nhân vật của mình niềm thương cảm, chia sẻ với những đớn đau, tủi nhục mà họ phải gánh chịu.

Không chỉ vậy, các nhà văn, nhà thơ còn bày tỏ sự trân trọng những vẻ đẹp quý giá của họ. Đó là vẻ đẹp về cả ngoại hình, tài năng, nhân cách và đặc biệt hơn cả là dù sống trong hoàn cảnh như thế nào, họ vẫn cho thấy ở họ có một ý thức sâu sắc về thân phận của mình và khát vọng vươn lên để có được tự do và hạnh phúc.

Kết bài: Tóm lại, thông qua những nhân vật nữ, các tác giả văn học trung đại đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là việc họ quan tâm đến số phận của con người trong hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã. Qua hình tượng người phụ nữ, họ đồng thời cũng cất lên tiếng nói tố cáo thế lực tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc con người và ca ngợi những vẻ đẹp đạo đức quý giá mà đến mãi muôn đời, thiết nghĩ vẫn sẽ được gìn giữ, trân trọng.

Dàn ý hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

Mở bài hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

  • Giới thiệu về văn học trung đại.
  • Giới thiệu hình tượng người phụ nữ trong giai đoạn này.

Thân bài hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

  • Hình ảnh người phụ nữ mang vẻ đẹp về ngoại hình, tài năng, nhân cách.
  • Người phụ nữ chịu nhiều bi kịch và những đắng cay của cuộc đời
  • Người phụ nữ ý thức về phẩm giá của mình và có khát vọng vươn lên.

Kết bài hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

  • Khái quát vẻ đẹp tâm hồn và cốt cách cao đẹp của những người phụ nữ.
  • Đánh giá về hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn học trung đại.
  • Tấm lòng nhân đạo của các nhà văn nhà thơ khi viết về họ.
  • Cảm nghĩ của bản thân về cuộc sống của những người phụ nữ xưa.
24 tháng 8 2018

Bài học từ phong cách đạo đức của Hồ Chí Minh:

- Nói được Hồ Chí Minh: tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và nét đẹp trong lối sống giản dị, thanh cao của Người

- Học hỏi sự giản dị trong: lối sinh hoạt (ăn, ở, mặc…), tác phong làm việc

- Sự thanh cao trong nhân cách: thường xuyên học tập, nuôi dưỡng tâm hồn

- Người có đức tính khiêm tốn, chân thành, cởi mở… Bác hi sinh tất cả, quên mình lo cho dân cho nước

→ Tỏ lòng yêu mến, biết ơn Bác Hồ, phán đấu rèn luyện theo gương Bác

 1. Kể tên những tác giả, tác phẩm, đoạn trích được học trong phần văn học trung đại? Nêu nội dung, nghệ thuật của những đoạn trích, tác phẩm đã học trong phần văn học trung đại?      2. Vẻ đẹp của người phụ nữ qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và qua các đoạn trích trong “Truyện Kiều”, truyện “Lục Vân Tiên”?     3. Vẻ đẹp người anh hùng:a) Nguyễn Huệ...
Đọc tiếp

 1. Kể tên những tác giả, tác phẩm, đoạn trích được học trong phần văn học trung đại? Nêu nội dung, nghệ thuật của những đoạn trích, tác phẩm đã học trong phần văn học trung đại?

      2. Vẻ đẹp của người phụ nữ qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và qua các đoạn trích trong “Truyện Kiều”, truyện “Lục Vân Tiên”?

     3. Vẻ đẹp người anh hùng:

a) Nguyễn Huệ (đoạn trích “Hoàng Lê nhất thống chí – Hồi thứ mười bốn”)

b) Lục Vân Tiên (đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”)

      4. Tóm tắt Truyện Kiều. Nêu những nét chính về thời đại, gia đình và cuộc đời Nguyễn Du?

      5. Qua các đoạn trích đã học trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du hãy nêu giá trị nhân đạo, hiện thực và những thành công về nghệ thuật của tác phẩm?

0
5 tháng 12 2018

Văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của nhà báo Lê Anh Trà

31 tháng 1 2022

Đó là văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh" của nhà văn Lê Anh Trà.

26 tháng 11 2018

Văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của nhà báo Lê Anh Trà

10 tháng 2 2022

- Đó là văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh"

- Của tác giả Lê Anh Trà.

"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"

Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:

"Đau đớn thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"

Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng "Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du và "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.

Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.

Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam Xương".

Tục ngữ có câu "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.

Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du. Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".

Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:

"Thân em như hạt mưa sa

Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài"

Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền: "Trọng nam khinh nữ", người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo "tam tòng", hay các quan niệm lạc hậu như "nữ nhân ngoại tộc"... Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.

Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn rơi rớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.

Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.

Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc.

Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.

Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt - đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.

Viết "Chuyện người con gái Nam Xương" và "Truyện Kiều", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.

​** Chúc bạn học tốt **

Đất nước Việt Nam — đất nước của những câu hát ru ngọt ngào, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tần tảo qua bao năm tháng… và từ trong cái nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương."Phận đàn bà” trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi giây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.Đó là những đau khổ mà người phụ nữ trong thời đại phong kiến. Họ đẹp, đẹp cả về ngoại hình và nhân cách. Thế nhưng cuộc sống của họ không do họ làm chủ, phải sống kiếp sống lênh đênh, trôi dạt, không định trước được tương lai của mình. Tuy nhiên, họ vẫn vượt lên nhưng đau đớn, tủi nhục ấy, để kiếm tìm hạnh phúc cho mình.