Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 1: Trong nửa cuối thế kỷ XIX, tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều đề nghị cải cách với mục tiêu cải thiện tình hình xã hội và hành chính. Một số điểm tích cực của những đề nghị này bao gồm:
- Đề xuất cải cách hành chính nhằm tăng cường hiệu suất quản lý và giảm thất thoát nguồn lực.
- Thúc đẩy việc học hành và giáo dục, với mong muốn nâng cao tri thức và kiến thức của nhân dân.
- Đề nghị sửa đổi các quy định về thuế và thuế quân sự nhằm giảm bớt gánh nặng thuế cho người dân.
Tuy nhiên, mặt hạn chế của những đề nghị này bao gồm:
- Sự chậm trễ trong việc thực hiện cải cách, do sự phản đối từ bộ máy quan lại và tri thức phong kiến.
- Thiếu tính cụ thể và chi tiết trong các đề nghị, không đưa ra các kế hoạch thực hiện cụ thể.
- Sự chia rẽ và bất đồng quan điểm giữa các tầng lớp và tầng tương trợ, làm yếu đề xuất và ảnh hưởng đến việc thực hiện chúng.
Câu 2: Các đề nghị cải cách ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện do một số lý do sau:
- Sự phản đối từ tri thức phong kiến và bộ máy quan lại, vì họ lo ngại rằng cải cách có thể đe dọa địa vị và quyền lợi của họ.
- Sự phân chia và xung đột giữa các phái phân động với các quan điểm và mục tiêu khác nhau, làm yếu sự thống nhất trong việc thực hiện cải cách.
- Sự can thiệp và áp lực từ phía thực dân Pháp, khi họ cố gắng duy trì và gia tăng ảnh hưởng và kiểm soát tại Việt Nam.
-> Những hạn chế này đã góp phần làm cho các đề nghị cải cách không thể thực hiện một cách hiệu quả và toàn diện, khiến cho Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều vấn đề xã hội và chính trị trong thời kỳ này.
Tham khảo:
*Bảng nội dung của các đề nghị cải cách ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỉ XIX
* Ý nghĩa của những đề nghị cải cách:
- Gây tiếng vang lớn, tấn công vào những tư tưởng bảo thủ và phản ánh trình độ nhận thức mới của người Việt Nam hiểu biết, thức thời.
- Góp phần vào việc chuẩn bị cho sự ra đời phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX ở Việt Nam.
*Những hạn chế của các đề nghị cải cách cuối thế kỉ XIX:
- Các đề nghị cải cách vẫn mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc.
- Không giải quyết được mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
Các đề nghị cải cách cuối thế kỷ XIX tại Việt Nam bao gồm:
Đề nghị cải cách về chính quyền: Đề nghị tách biệt quyền lập pháp, thực thi và tư pháp; thành lập hội đồng quản trị để giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền.
Đề nghị cải cách về thuế: Đề nghị giảm thuế, loại bỏ những khoản thuế phi lý và không công bằng.
Đề nghị cải cách về giáo dục: Đề nghị nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng phạm vi giáo dục cho toàn dân.
Đề nghị cải cách về kinh tế: Đề nghị khuyến khích sản xuất, mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Những mặt tích cực của các đề nghị cải cách này là:
Các đề nghị này đã thể hiện sự quan tâm đến sự phát triển của đất nước, mong muốn nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Các đề nghị này đã đề xuất những giải pháp cụ thể để cải thiện tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, các đề nghị cải cách này cũng có những hạn chế như:
Các đề nghị này không được triển khai thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả do sự phản đối của triều đình và các thế lực thống trị khác.
Các đề nghị này không đủ mạnh để giải quyết các vấn đề cấp bách của đất nước, như vấn đề độc quyền thương mại của Pháp hay vấn đề đất đai của người dân.
Các đề nghị này chưa đủ toàn diện và sâu sắc để giải quyết các vấn đề cấu trúc của đất nước, như vấn đề phân bố tài nguyên, chính sách thuế, văn hóa, giáo dục, y tế, v.v.
- Các đề nghị cải cách vẫn mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc.
- Chưa xuất phát từ những vấn đề cơ bản của thời đại: giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
https://loga.vn/hoi-dap/hoan-canh-va-noi-dung-cua-cac-de-nghi-cai-cach-cuoi-the-ki-i-trinh-bay-hoan-canh-noi-dung-co-ban-62455
Hóa sao lại là Lịch Sử =))
a) Khối lượng NaCl cần dùng là : \(m_{ct}=\frac{m_{dd}\cdot C\%}{100}=\frac{100\cdot15}{100}=15\left(g\right)\)
Khối lượng nước cần dùng : mdm = mdd - mct = 100 - 15 = 85(g)
Cách pha chế : Cân lấy 15g NaCl khan và 85g nước bỏ vào cốc có dung tích 150ml. Quấy đều và ta được dung dịch 100g NaCl 15%
b) Đổi 200ml = 0,2l
Số mol CuSO4 cần dùng : \(n_{CuSO_4}=C_M\cdot V=1\cdot0,2=0,2\left(mol\right)\)
Khối lượng CuSO4 cần dùng : \(m_{CuSO_4}=n_{CuSO_4}\cdot M_{CuSO_4}=0,2\cdot160=32\left(g\right)\)
Cách pha chế : Cân lấy 32g CuSO4 khan cho vào cốc có dung tích 250ml. Đổ nước và khuấy đều cho đến 200ml. Ta được dung dịch 200ml CuSO4 1M
giúp mình 2 câu nhé đây là hoá 8 mình cảm ơn