Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hãy nêu một số sự kiện trính trong truyện Thánh Gióng.
Cách 1: Nêu một số sự kiện chính của truyện Thánh Gióng ngắn gọn:
(1) Sự ra đời của Gióng;
(2) Giặc Ân xâm lược, Gióng biết nói và xin nhận trách nhiệm đánh giặc;
(3) Gióng lớn nhanh như thổi;
(4) Gióng vươn vai thành tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt ra trận đánh giặc;
(5) Thánh Gióng đánh tan giặc;
(6) Thánh Gióng lên núi, cởi giáp sắt bỏ lại, bay về trời;
(7) Vua phong danh hiệu và lập đền thờ;
(8) Những dấu tích còn lại của chuyện Thánh Gióng.
Cách 2: Nêu một số sự kiện chính của truyện Thánh Gióng chi tiết:
Sự kiện 1. Gốc tích lạ lùng của Thánh Gióng
- Hai ông bà đã già, chưa có con.
- Bà lão giẫm lên một dấu chân khổng lồ, về nhà thụ thai.
- Mười hai tháng sau bà sinh một đứa con trai.
- Khi ba tuổi chú bé vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi.
Sự kiện 2. Thánh Gióng nói được và lớn nhanh như thổi
- Giặc Ân xâm lược, thế giặc mạnh, vua cho sứ giả đi tìm người tài.
- Gióng bỗng nhiên nói được, nhờ mẹ mời sứ giả. Nói với sứ giả đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt.
- Gióng lớn nhanh như thổi, ăn không đủ no. Dân làng góp thóc gạo nuôi.
Sự kiện 3. Thánh Gióng đánh thắng giặc xâm lăng và bay về trời
- Giặc đến chân núi Trâu. Sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến.
- Gióng vươn vai thành tráng sĩ khổng lồ, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Tráng sĩ mặc giáp, cầm roi, cưỡi ngựa ra trận.
- Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng vào giặc. Giặc chết như ngả rạ.
- Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ những cụm tre đánh giặc.
- Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ lên núi, cởi giáp sắt để lại cùng ngựa bay lên trời.
Sự kiện 4. Vua nhớ công ơn phong tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ.
Tìm những chi tiết chi thấy truyện liên quan đến lịch sử.
Truyện Thánh Gióng liên quan đến sự thật lịch sử: + Thời đại Hùng Vương ta đã phải chống lại sự xâm lược của giặc phương Bắc. + Đây cũng là thời kì mà đồ sắt thay thế cho đồ đồng. + Nhân dân ta vẫn luôn đoàn kết, anh dũng tao nên sức mạnh to lớn.
Con rồng cháu tiên:
Ý nghĩa: giải thích, suy tôn nguồn gốc nòi giống (người VN ta là con cháu của các vua Hùng, là nòi giống rồng tiên), thể hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất cộng đồng người Việt.
Sự thật lịch sử: là sự kết hợp giữa các bộ lạc Lạc Việt với Âu Lạc và nói nên nguồn gốc chung của các cư dân Bách Việt. Đền thờ Âu Cơ, vua Hùng, vùng đất Phong Châu.
Bánh chưng bánh giầy:
Ý nghĩa: giải thích nguồn gốc bánh chưng bánh giầy và tục làm hai loại bánh trong ngày Tết, đề cao lao động và nghề nông, đề cao sự thờ kính Trời, Đất, tổ tiên của nhân dân ta.
Sự thật lịch sử: nhân vật Hùng Vương, tục làm bánh chưng bánh giầy.
Sơn Tinh Thủy Tinh
Ý nghĩa: giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm. Thể hiện sức mạnh, ước mơ chế ngự thiên tai của người Việt xưa. Suy tôn, ca ngợi công lao dựng nước và giữ nước của các vua Hùng.
Sự thật lịch sử: núi Tản Viên (Ba Vì, Hà Tây), hiện tượng lũ lụt vẫn xảy ra hằng năm.
Thánh Gióng:
Ý nghĩa: đề cao sức mạnh và ý thức bảo vệ đất nước. Thể hiện sức mạnh, ước mơ của nhân dân ta về người anh hùng cứu nước chống giặc ngoại xâm.
Sự thật lịch sử: đền thờ thánh Gióng (Sóc Sơn), tre đằng ngà, ao hồ liên tiếp, làng Cháy.
Sự tích hồ Gươm:
Ý nghĩa: giải thích tên gọi hồ Gươm, ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, thể hiện khát vọng hòa bình của dân tộc.
Sự thật lịch sử: tên người thật: Lê Lợi, Lê Thận. Tên địa danh thật: hồ Tả Vọng, hồ Gươm, Lam Sơn. Thời kỳ lịch sử có thật: khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh đầu thế kỷ XV.
bài này mình mới học sáng nay xong!
mình phải học tới tận 4 tiết lận đó, còn 1 tiết buổi chiều nữa ớn lắm!
bt bn à! Mik pjt bài nì lm s òi, mik đăng để thử kiến thức của các bn hui à ^^
có vua hùng , có mị nương công chúa , có bão lũ hằng năm , có núi tản viên
< TD tự làm nha mk ngu lắm >
Sự thật lịch sử trong truyện Sơn Tinh,Thủy Tinh được thể hiện rõ nhất qua những chi tiết,hình ảnh:Thời vua Hùng,vua Hùng gả con gái,mưa bão mà Thủy tinh gây ra chính là mùa bão hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ xưa,Sơn Tinh làm núi để tránh nước.Đó là hình ảnh nhân dân ta đắp đê chống lũ hằng năm
học tốt
Cốt lõi lịch sử của Sơn Tinh Thủy TInh là:giải thích hiện tượng lũ lụt xảy ra ở vùng châu thổ thường xuyên bắc bộ thời xưa và thể hiẹn khát vọng chế ngự lũ lụt,bảo vệ cuộc sống của nhân dân ta và khen vua Hùng có công lao dựng nước của ch ông ta trong thời vua Hùng
Bài làm:
Sự tích dưa hấu và nhân vật An Tiêm đã để lại trong em một ấn tượng sâu sắc về những phẩm chất tốt đẹp của con người và sự tình thần phi thường của anh trong cuộc sống. Đây không chỉ là một câu chuyện đơn giản về một loại trái cây, mà còn là một bài học về tấm lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, và tinh thần sáng tạo.
An Tiêm, dù là con nuôi của vua và được hưởng nhiều phúc lợi, đã luôn giữ vững niềm tin rằng "Của biếu là của lo, của cho là của nợ." Anh không chấp nhận sự vô tâm và vô ơn từ phía vua Hùng và bọn nịnh thần. Thay vào đó, An Tiêm quyết định đối mặt với khó khăn và đày ra hoang đảo với lòng kiên định và lý tưởng cao cả.
Cuộc sống trên đảo hoang đối với An Tiêm và gia đình anh không dễ dàng. Nhưng anh đã biến những thách thức nghiệt ngã thành cơ hội và hy vọng. Anh thông minh, sáng tạo và kiên nhẫn. Với một miếng dưa hấu bị bỏ lại bởi chim, An Tiêm đã khám phá ra một giống cây mới và tạo ra một nguồn thực phẩm cho gia đình anh.
An Tiêm không chỉ trồng dưa hấu mà còn thả xuống biển để nói với thế giới rằng anh đã thành công và sẵn sàng trở lại đất liền. Anh đã biến một cuộc sống cô độc và khó khăn trên đảo hoang thành một cuộc sống phồn thịnh và hạnh phúc.
Sự tích dưa hấu và An Tiêm đã cho em thấy rằng tinh thần sáng tạo, lòng kiên định, và lòng nhân ái có thể thay đổi số phận của một người và cả một cộng đồng. Điều này là một thông điệp đầy ý nghĩa về giá trị của lòng kiên nhẫn và khả năng thích nghi trong cuộc sống.
Nhớ An Tiêm và câu chuyện về dưa hấu, em hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc biến khó khăn thành cơ hội và luôn giữ tinh thần lạc quan trong mọi tình huống. Câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" trở nên sâu sắc hơn trong trái tim em, và em cảm ơn cuộc sống đã cho em cơ hội học hỏi từ sự tốt lành và đức tính của những người như An Tiêm.
la em thay cau be rat cham ngoan va hien hau em rat thich bn do vi ...
su that lich su trong truyn duoc the hien qua cac chi tiet:thoi vua Hung , vua Hung ga con gai,mua bao ma Thuy Tinh gay ra do chinh la mua bao hang nam o dong bang Bac Bo xua , Son Tinh lam nui de tranh nuoc do la hinh anh nhuoi nhan dan ta dap de trong lut
Ở đây, như tất cả những nơi thờ phụng Sơn Tinh trên đất nước, có rất nhiều thần phả ghi lại công đức và sự nghiệp của Ngài, nhưng sinh động nhất vẫn là kho tàng truyền thuyết dân gian truyền miệng từ đời này sang đời khác với tất cả lòng say mê và thành kính.
Đó là những truyện kể về vô vàn sự tích kỳ lạ của Sơn Tinh gắn liền với các địa danh, địa hình, địa vật: những rừng núi, gò đồi, sông suối, bờ bãi, đầm hồ; những đình đền miếu mạo, những thôn xóm và những con người ở vùng xung quanh núi Tản.
Đỉnh núi Tản Viên Trong ký ức nhân dân vùng chân núi Ba Vì, Sơn Tinh trước hết là hình tượng người Anh hùng trị thủy, người đã chiến thắng oanh liệt Thủy Tinh, cứu dân thoát khỏi nạn lụt. Chuyện Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh chiếm một phần lớn nhất trong các truyền thuyết về Ngài.
Thủy Tinh và thuộc hạ đã gây cho dân vùng này biết bao tai họa tàn bạo và khủng khiếp, đến mức hàng năm nhân dân phải cống nạp cho chúng những người con gái còn trinh như các chuyện kể ở Tây Đằng, Vật Lại, Cam Thượng Đường Lâm.
Sức mạnh của Thủy Tinh thật là ghê gớm. Hắn phá tung những dẫy gò đồi phía bắc Ba Vì tạo thành suối Di, sới tung ruộng đồng phía đông tạo thành sông Tích. Hắn húc nghiêng cả núi Chàng Rể ở phía tây, đến bây giờ trái núi này vẫn gù lưng, không ngửng lên được nữa. Thậm chí Thủy Tinh còn dâng nước lên tận Ao Vua, Khoang Xanh ở ngang sườn núi Tản.
Chỉ có sức lao động thần kỳ và trí tuệ phi thường của Sơn Tinh mới chống được Thủy Tinh. Những quả đồi Mòm và dãy gò Choi ở vùng Tòng Lệnh phía bắc núi Ba Vì hay những trái núi vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán, những hòn núi Chẹ, núi Đá Chèm ở phía tây thuộc mạn sông Đà, những dãy đồi Máng Sòng, đồi Giếng ở phía đông núi Ba Vì đều do Sơn Tinh ngày đêm gánh đất đắp nên để chặn dòng nước lũ của Thủy Tinh. Sự tích "đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt" kể rằng trái đồi Vai cao nhất xã Kim Sơn là tảng đất rơi vì thủng sọt, còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều dọc con đường Ngài gánh đất ngày xưa.
Sơn tinh còn nghĩ ra trăm phương ngàn kế để chiến thắng Thủy Tinh, từ việc cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt thành rừng quanh ngọn U Bò, ném lạt tạo thành lũy tre dày ở ngòi Lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống đánh tan quân Thủy Tinh, chạy thành mười sáu ngả ở đầm Đượng.
Trên bãi chiến trường xưa của Sơn Tinh, vẫn còn đó những dấu vết tàn binh bại tướng của Thủy Tinh: Rùa,Cá Sấu ở Vân Sơn; Rắn và Giải ở Phụ Khang và Sơn Lộc;Thuồng luồng ở cầu Hang và thủy quái ở ghềnh Bợ trên sông Đà... Có đứa xác biến thành đá, thành đồi, có đứa sống sót tìm vực sâu ẩn nấp, chờ chủ tướng hàng năm lại trở về quấy đảo trong mùa nước lũ.
Đường lên núi Tản Trong các truyền thuyêt về Sơn Tinh trị thủy, hình tượng Sơn Tinh là người anh hùng có vóc dáng khổng lồ, có thể quẩy núi, ngăn sông. Phải chăng chỉ có hình tượng kỳ vỹ của người khổng lồ mới phản ánh được hiện thực lớn lao và sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong công cuộc chinh phục tự nhiên,dọc theo quá trình tiến từ rừng núi xuống đồng bằng trong lịch sử xa xưa của dân tộc? Chắc chắn rằng để tồn tại được ở vùng đất thâp, cuộc chiến đấu ác liệt nhất của tổ tiên ta phải là cuộc chiến đấu chống lại nạn lụt hoành hành dữ dội theo chu kỳ mùa nước hàng năm.
Cho đến hôm nay, nạn lụt vẫn còn là mối đe dọa lớn đối với nhân dân ta. Vì vậy, có thể nói truyền thuyết Sơn Tinh thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân muốn chế ngự được thảm họa lũ lụt, đồng thời cũng là lời cảnh báo tự muôn đời không bao giờ được lơ là đối với thủy tai.
Sơn Tinh
Trong các truyền thuyết sưu tầm được ở xứ Đoài, Sơn Tinh còn xuất hiện với tính cách người Anh hùng khai sáng. Từ quê cũ Lăng Xương, Sơn Tinh vượt sông Đà sang núi Tản khai phá vùng đất mới rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Ngài đưa cả mẹ già và công chúa Ngọc Hoa về vùng núi Ba Vì. Ở đây, Sơn Tinh trở thành ông tổ trăm nghề. Vùng ven sông Tích vẫn lưu truyền việc Sơn Tinh dạy dân làm ruộng. trong các truyền thuyết ở Ao Vua, Quy Mông, Sơn Tinh lại dạy dân đào giếng lấy nước ăn và chống hạn. Sơn Tinh chỉ bảo phường săn ở rừng Măng cách chăng lưới và làm bẫy để bắt chim, săn thú; dạy dân Cung Sơn cách làm "dập", một công cụ bắt cá chỗ nước sâu, nơi hội tụ của nhiều nhánh sông. Công chúa Ngọc Hoa, vợ của ngài thì dạy dân trồng dâu chăn tằm, ươm tơ dệt lụa.
Sơn Tinh - Ngọc Hoa
Không chỉ dạy dân cách làm ăn để dân no ấm, Sơn Tinh còn dạy dân múa hát để vui sống sau những giờ lao động nhọc nhằn. Hội múa Dô ở Liệp Tuyết chính là hình thức kỷ niệm việc Sơn Tinh dạy dân nghệ thuật. Các làng Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thuần Nghệ, Phú Nhi lại truyền tụng những câu chuyện Sơn Tinh dạy dân lễ giáo, trau dồi phong hóa, mong muốn mọi người sống với nhau đầm ấm chan hòa, có nghĩa, có nhân. Nhiều nơi, Sơn Tinh để lại dấu chân trên đường làm thuốc trị bệnh cứu người.
Trải qua bao thế hệ, trong trí nhớ của nhân dân, Sơn Tinh bao giờ cũng là vị thủ lĩnh có đức độ cao cả, có lòng cứu nhân độ thế, là người anh hùng hộ quốc an dân, tế bần cứu khổ,lấy việc chăm lo cho dân làm mục đích tối thượng. Có phải đó là biểu hiện lý tưởng, là mong ước từ xưa của quần chúng về người lãnh tụ chân chính của nhân dân?
Ở một số truyền thuyết, Sơn Tinh lại giữ vai trò của người Anh hùng liên minh các bộ tộc, giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sơn Tinh đã thân hành dẫn dân Cẩm Lĩnh ở chân núi Ba Vì về gặp dân Tòng Bạt ở hạ lưu sông Đà để kết nghĩa làm anh em. Tinh thần hòa hợp và thống nhất của Sơn Tinh đã thu phục được cả những vị thủ lĩnh ở các vùng xa tìm đến kết giao, như truyền thuyết về các ông thánh Miễu, ông Ba Bể cảm phục đức tài thánh Tản.
Tuy hùng cứ một phương, có thế lực và quyền uy rất lớn, song Sơn Tinh vẫn thần phục Hùng Vương, xin được làm rể và bề tôi của nhà vua.Việc cầu hôn công chúa Ngọc Hoa phải chăng thể hieenjtuw tưởng kết liên, nhằm mở rộng bờ cõi, hòa nhập với bộ lạc Văn Lang, tăng cường sức mạnh khối đoàn kết nhân dân?
Trong tình hình các thị tộc, bộ lạc có khuynh hướng cát cứ, phân lập và kình địch lẫn nhau, việc thống nhất lực lượng của Sơn Tinh thật có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử.
Rải rác trong một số chuyện, Sơn Tinh đã đánh giặc để giữ gìn bờ cõi. Ở những chuyện này, Sơn Tinh lại được ngợi ca như một ngườiAnh hùng bảo vệ đất nước.
Truyền thuyết vùng Tản Lĩnh kể rằng Sơn Tinh đem quân đuổi giặc, gấp đến nỗi phải cho quân ăn nồi cơm sống dở, về sau, trong những ngày lễ hội, đồ hiến tế bao giơ cũng có ván sôi tráng lớp mật, trên rắc ít hạt gạo sống tượng trưng cho nồi cơm đuổi giặc chưa kịp chín năm xưa. Vùng Thanh Lạng lưu truyên khúc dân ca kể rằng dân làng gói bánh chưng giữa tháng mười khao quân của ngài ăn tết sớm kịp đi đánh giặc.
Giống như nhiều nơi khác, ở Ba Vì cũng có truyền thuyết về Sơn Tinh đánh giặc Thục. Trong các trận giao chiến dữ dội với quân Thục rất đông và mạnh, Sơn Tinh bao giờ cũng chiến thắng vẻ vang, cuối cùng chúa Thục phải cầu hòa và rút quân. Ở đây, chưa biết sự thật lịch sử hư thực ra sao, nhưng truyền thuyết về Sơn Tinh đánh giặc thể hiện rất rõ ý chí kiên cường bất khuất và lòng tự hào về khả năng bảo vệ vững chắc lãnh thổ thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc.
Sơn Tinh còn rất chăm lo rèn quân luyện võ để không ngừng nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. mỘt số nơi còn giữ được tục lệ đầy tinh thần thượng võ như lễ hội làng Khê Thượng diễn lại tích Sơn Tinh luyện võ ngày xưa.
Trong truyền thuyết dân gian, hình tượng Sơn Tinh mang tính nhân dân rất đậm nét . Tuy ở địa vị tôn quý, ngài vẫn ăn ở chan hòa bình dị với dân. Ngài cùng làm việc với mọi người, cũng gánh đất chống lụt, tắm rửa ven sông như một nông dân. Sơn Tinh cũng kéo vó bên sông Tích, ăn gỏi cá ở Bằng Tạ như một ngư dân. Ngài cùng đi săn với phường săn, cùng ngủ rừng với ông già tiều phu ở Cẩm Đảivà cùng ông kéo ống giang với bùi nhùi đốt lửa sưởi trong đêm. Sơn Tinh còn thường xuyên đi thăm hỏi dân các làng quê, cùng vui chơi múa hát trong các ngày lễ hội.
Một số hình ảnh lễ hội Sơn Tinh ở đền Và - thị xã Sơn Tây:Căn cứ vào truyền thuyết ở vùng Ba Vì thì có lẽ vào thời Hùng Vương, sự phân hóa giai cấp còn chưa rõ nét. Hình ảnh Sơn Tinh không có dáng dấp đặc trưng của giai cấp thống trị như trong các thời kỳ lịch sử sau này.Quan hệ giữa Sơn Tinh với nhân dân là bình đẳngvà dân chủ. Sơn Tinh không có đặc quyền đặc lợi nào cả, cũng không có sự ngăn cách, phân biệt nào giữa thủ lĩnh với quần chúng nhân dân.
Có thể nói hình ảnh núi sông, đất nước và nhân dân của cả một vùng sông Đà - núi Tản được sử dụng như những chất liệu cơ bản để khắc họa hình tượng Sơn Tinh: một cô gái cắt cỏ trên đồng, một cụ già kéo cá bên sông Tích, một trái đồi Vai, một giếng Mùi gươm trên đỉnh U Bò, một xóm Rủa, xóm Cua ở chân núi Tản, một ghềnh Bợ ở quãng sông chảy xiết, một con nước "hoa mơ" màu trắng xuất hiện trên sông cho đến mẩu gỗ trôi theo dòng nước lũ... hầu như tất cả thiên nhiên, sản vật, con người ở khắp nơi trn đất Ba Vì đều được gắn liền với cuộc đời và những chiến công của người Anh hùng bất tử.
Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ, nếu như Đức Chử Đồng Tử có công khai mở bờ cõi, Đức Phù Đổng Thiên vương có công bảo vệ non sông, Giáng Tiên Liễu Hạnh dạy dân về thuần phong mỹ tục, thì với Sơn Tinh, ngài bao trùm tất cả những công đức ấy. Ngài xứng đáng đứng đầu trong các vị thần bất tử.