Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vụ án Lệ Chi Viên, tức Vụ Án Vườn Vải là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê Sơ.Qua vụ án này quan đại thần hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ bị triều đình Lê Sơ kết tội giết vua Lê Thái Tông bắt tội chém đầu đến 3 họ nhà Nguyễn Trãi.Đến năm 1464, thời vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan người con còn sống sót duy nhất của ông là Nguyễn Anh Vũ được cất làm quan huyện bản thân ông được truy tặng tước hiệu.
Nếu bạn muốn biết chi tiết hơn thì lên google đánh Vụ án Lệ Chi Viên là ra
Hk tốt!!
#Ly#
là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ bị triều đình Lê Sơ kết tội giết vua Lê Thái Tông, bắt tội chém đầu đến 3 họ nhà Nguyễn Trãi.[1]
Đến năm 1464, thời vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, người con còn sống sót duy nhất của ông là Nguyễn Anh Vũ được cất làm quan huyện, bản thân ông được truy tặng tước hiệu[2].
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.
Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 – 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.
Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.
Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điêm cơ bản sau:
Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. O*? Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất.
Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chiụ những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử.
- Một câu chuyện về Nguyễn Trãi 17/08/2006 Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn vai đeo túi nải tới gần ngã ba đường chợt nghe thấy tiếng kêu khóc từ trong làng xa vọng tới. Vừa dừng lại, hai người đã thấy một toán giặc Minh hùng hổ khiêng lợn, gà, gạo từ trong làng đi ra. Mấy đám cháy rồi mấy đám cháy nữa xuất hiện. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tái người khi nghe thấy lẩn trong tiếng nổ có những tiếng kêu thảm thiết. Trần Nguyên Hãn bậm môi đưa mắt nhìn Nguyễn Trãi. Hiểu ý, Nguyễn Trãi khoát tay: - Hiện giờ ta chẳng giúp gì được cho dân mọn đâu. Đừng nóng mà hỏng việc. Hai người định quay đi thì lại có tiếng kêu thất thanh. Ngoảnh lại Nguyễn Trãi đã nhìn thấy không chỉ có một toán mà là nhiều toán giặc vừa đánh nhau với trai tráng trong làng vừa lùa vội đàn trâu, bò chạy xông ra đường. Chẳng đành lòng, nhưng nghĩ mình đang phải trốn giặc vào Lam Sơn tìm minh chủ dựng cờ phục quốc, nên Nguyễn Trãi thở dài nói với Nguyên Hãn: - "Chở thuyền làm lật thuyền cũng là dân". Nay giặc Minh tích điều ác, nghịch lòng dân thì chúng càng mau chết. Ta chẳng đang vì cuộc sống no lành của muôn họ đó sao? Thoáng thấy Nguyễn Trãi rơm rớm nước mắt. Trần Nguyên Hãn bối rối xốc túi nải, nét mặt đăm đăm: - Tình hình này ta chẳng thể theo lộ quan tới Lam Sơn được đâu. Đành phải xuyên sơn, chịu vất vả vậy. - Có xá gì! Miễn là tránh được mắt giặc. Ta cứ hướng theo con đường lai kinh mà đi. Rẽ vào đồi rồi Nguyên Hãn còn chưa hết bực: - Đường đất chưa đi được là bao mà bảy lần thấy giặc chặn đường cướp giật, hành hạ dân mình. Tiểu đệ những tưởng chỉ ở nơi hang ổ của giặc, chúng cậy đông mới lộng hành đến thế! Nguyễn Trãi cướp lời: - Trần huynh mãi đọc binh pháp không đi đây đó nên không thấy đó thôi. Tôi chẳng may phải mười năm luân lạc nên mắt thấy tai nghe đã nhiều. Ở đâu có giặc thì ở đó dân làng không được yên sống. Từ lâu vẫn muốn hỏi về việc làm của bạn trong mười năm xa cách nhưng chưa tiện. Nhân Nguyễn Trãi nhắc tới những năm luân lạc, Trần Nguyên Hãn lựa lời hỏi những điều còn băn khoăn: - Kể từ ngày đại huynh bị Trương Phụ bắt giam rồi được tha, người mình khởi binh chống giặc cũng nhiều mà sao đại huynh không theo phò ai cả. Ngay hai vị vương họ Trần dấy binh, thanh thế đã lớn mà nghe ngóng mãi cũng không thấy tiếng đại huynh? Nguyễn Trãi chậm rãi: - Kể về thanh thế thì không chỉ có cuộc dấy binh của Giản Định, Trùng Quang mới là lớn. Và không phải tôi không có ý theo phò. Ngặt vì khởi binh đánh giặc là làm một việc lớn. Mà phàm mưu việc lớn, phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Duy nhân nghĩa gồm đủ thì công việc mới thành
- được. Lẽ ấy tôi không tìm thấy trong các cuộc khởi binh đánh giặc mà tôi biết. Ngày hai vị vương họ Trần, dẫu có danh tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân giúp rập, đã có lúc lấy được Nghệ An, Thuận Hóa. Nhưng thiếu chiến sách hay nội bộ chia rẽ, lại khôi phục cơ nghiệp nhà Trần, lòng nhân không mong thì nghiệp lớn sao thành? Trần Nguyên Hãn băn khoăn: - Đại huynh nói chí phải. Chính vậy mà tiểu đệ lo không biết hào trưởng Lê Lợi có đúng là người có chí lớn như ta hằng mong không. - Cứ phải mắt thấy tai nghe thì mới chắc. Nhưng cứ như cung cách làm việc của hào trưởng họ Lê thì ta có thể gởi chí mình được. Bắt đầu đường dốc, trời lại tối, hai người ngừng câu chuyện, đổi vai đeo nải vắng bước, người hơi ngả về phía trước. Trên kia, cao hơn cả những ngọn đồ cao nhất, là mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng xa xa, giữa bầu trời ngàn vạn ngôi sao lấp lánh. Nguyễn Trãi giật mình choàng dậy sau giấc ngủ mê mệt, hậu quả của những ngày đi bộ. Chỉ đến lúc nhìn thấy qua rặng cây thưa, dòng sông Bùi kéo thành một vệt dài lấp loáng, lượn giữa hai dãy rừng tối đen, Nguyễn mới nhận ra, mình đang ở trên một quả đồi thuộc vùng Tốt Động. Biết chẳng phải ngủ lại được. Nguyễn Trãi muốn đánh thức Trần Nguyên Hãn dậy để đi cho được đường đất, nhưng thấy bạn ngủ say nên không nỡ. Đêm tĩnh mịch quá. Nguyễn Trãi kêu lên se sẻ. Nguyễn chưa từng sống ở nơi này, trong hoàn cảnh này mà sao cảnh vật đêm nay thân thiết, quen thuộc như đã từng qua. Phải rồi Nguyễn Trãi thầm nhủ. Cũng vẫn những chòm sao tháng mười trên nền trời chuyển lạnh như thế này của hơn hai mươi năm trước, Nguyễn từ biệt Côn Sơn để trở về với cha ở Nhị Khê, sau khi mẹ rồi ông ngoại lần lượt từ trần. Tự dưng nhớ lại chuỗi ngày ấy. Nguyễn thấy thương nhớ cha da diết. Tiếng rằng cha đỗ tiến sĩ lại là con rễ một tể tướng thời Trần, nhưng trước khi đổi tên Nguyễn Ứng Long thành Nguyễn Phi Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, cha vẫn phải sống cuộc sống nghèo bằng nghề dạy học. Rồi cũng vào mùa này gần hai mươi năm trước sau khi Nguyễn đỗ Thái học sinh, cùng làm quan một triều với cha, Nguyễn những tưởng được đem tài sức cùng cha giúp Hồ Quý Ly thực hiện những canh tân, làm cho dân giàu nước mạnh. Nhưng giặc Minh xâm lược, cha con Hồ Quý Ly, cùng các triều thần trong đó có cha, đều bị giặc bắt. Khi biết cha sắp bị giải sang Ngô và chuyến đi này không có ngày về, Nguyễn thương khóc cha khôn xiết. Ngày cha và vua tôi Hồ Quý Ly bị giải về Kim Lăng (Nam Kinh), Nguyễn và em là Nguyễn Phi Hùng theo đoàn tù lên tận ải Pha Lũy với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha cho đến lúc mảng chiều xế bóng. Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảng vĩnh biệt đau lòng nơi địa đầu tổ quốc ấy, Nguyễn nào quên được. Nguyễn đã bắt gặp cái nhìn vừa âu yếm vừa nghiêm khắc của cha, khi nhân lúc vắng cha vẫy Nguyễn lại gần và bảo: "Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?". Nguyễn cứ ân hận mãi lúc đó không kịp giải bày tâm sự, hứa hẹn với cha. Nhưng lời giáo huấn của cha khiến Nguyễn thấu hiểu đạo làm con và bổn phận của người dân trong lúc đất nước bị giặc giày xéo. Thù nhà nợ nước đêm ngày thúc giục Nguyễn Trãi tìm phương nghĩ kế để rửa nhục cho nước nhà. Nhưng từ bấy đến nay việc lớn cứ canh cánh bên lòng mà nào Nguyễn đã làm được gì? Phải chăng Nguyễn đã để năm tháng trôi qua một cách vô ích, hay đã bỏ lỡ nhiều cơ hội gây dựng việc lớn? Nguyễn không tủi hổ với vong linh cha và bổn phận của một người dân; bởi vì hơn mười năm trời qua là hơn mười năm trời Nguyễn lênh đênh nơi góc biển chân trời, tìm người nghĩa khí, ôm ấp hy vọng đánh giặc, giải phóng non sông, đem lại thái bình cho muôn họ.
- Nguyễn nhớ lại bài thơ gởi chí mình làm từ ngày mới thoát khỏi tay Trương Phụ, Nguyễn đọc nhỏ: "Thần châu từ thuở nỗi can qua Rên xiết muôn dân đến thế mà Tử Mỹ ôn trung Đường xã tắc Bá Nhân chan lệ Tấn sơn hà Thu về đất lạ lòng nhiều cảm Đời biến lâu nay khách chóng già Ba chục năm trời danh tiếng hão Quay đầu muôn việc giấc nam kha" Kể từ ngày đến Lam Sơn, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn phải làm những công việc về nghề nông do Lê Lợi cắt đặt. Nguyễn thấy rõ, Lê Lợi có tài điều khiển công việc, nhất là lòng độ lượng bao dung đối với mọi người. Nguyễn đã dày công để tâm dò xét động tĩnh của Lê Lợi nhưng ngoài mấy nhận xét: Lê Lợi thường mua dầu nhiều hơn rượu, đêm đêm hay vắng nhà, tính tình trầm ngâm, kín đáo. Nguyễn không còn biết gì hơn. Tuy chưa đến nỗi thất vọng về con người mà ngày đêm Nguyễn hy vọng gởi chí mình, nhưng rõ ràng trong đám lá xanh thắm của niềm tin ấy, đã điểm những chiếc lá vàng. Vì vậy, đêm nay Nguyễn phải quyết dò xem thực hư việc Lê Lợi dựng cờ phục quốc! Nguyễn không thể cứ sống nửa tin nữa ngờ trong lúc mối nhục mất nước, cảnh giặc nướng dân đen vùi con đỏ vẫn ngày đêm giày vò tâm can Nguyễn. Trời vừa tối, thấy Lê Lợi vắng nhà, Nguyễn Trãi bèn vào rừng trèo lên một cây cao, nhìn bao qusát bốn phía. Bỗng từ hang núi cách khá xa trang trại của Lê Lợi, thấp thoáng có ánh lửa hắc ra. Đoán Lê Lợi đang họp hội kín ở đó, Nguyễn Trãi hồi hộp lần mò tìm đến. Vừa tới cửa hang, Nguyễn đã nhìn rõ Lê Lợi cùng với chừng mười người nữa đang xúm quanh chiếc bàn đá, trên bàn bày biện nhiều sách mà Nguyễn nhận ra là các sách binh thư. Hồi hộp xen lẫn sung sướng. Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi nói với mọi người: Thế là mọi việc đã cắt đặt đâu vào đó. Các ngươi hãy gắng vì nghĩa lớn để rửa nhục mối hờn mất nước. Không nén được niềm vui quá lớn và đột ngột, Nguyễn Trãi vừa tiến vào hang vừa nói, giọng xúc động: - Thưa chúa công! Bao năm nay đây mai đó tìm người nghĩa khí, tôn phò minh chủ, bàn kế cứu nước, tới nay tôi mới gặp. Lê Lợi giật mình tuốt gươm xông tới phía Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi ngỡ ngàng dừng lại: - Tôi đến đây xin làm nông phu chính là vì công việc phục quốc của chúa công. Nghe ra Lê Lợi vất gươm, mời Nguyễn Trãi ngồi hỏi chuyện. Khi biết người mới vào là danh sĩ Nguyễn Trãi, con Trung thư thị lang, Hàn lâm viện học sĩ Nguyễn Phi Khanh. Lê Lợi và mọi người mừng vui khôn xiết. Lê Lợi nắm tay Nguyễn Trãi, cung kính nói: - Thật là trời đã đem đến cho ta một lương phụ. Lê Lợi lần lượt giới thiệu những người xung quanh với Nguyễn Trãi. Lại một lần nữa, Nguyễn Trãi sửng sốt nhận ra tên tuổi nhiều người đã từng nghe nhưng chưa biết mặt. Nhưng nhớ ra điều gì hệ trọng, sau một phút tần ngần, Nguyễn Trãi rút từ trong tay áo tập sách đưa đến trước mặt Lê Lợi: - Nhân đọc binh thư, lại phần nào thấu được lòng dân, xét được địch tình trong những năm luân lạc, tôi làm ra
- Bình Ngô sách này, mong có ngày dùng đến. Nay dâng chúa công xem xét. Trong lúc Lê Lợi trân trọng đón lấy Bình Ngô sách, Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Đinh Lễ kéo Nguyễn Trãi đến gần mình vui vẻ nói: - Anh em tôi vẫn đoán sẽ có ngày tiên sinh tìm đến và dâng diệu kế. Nguyễn Trãi mỉm cười: - Trãi này nghe chúa công chiêu hiền đãi sĩ, mưu dấy binh thư lại mười lăm đạo nước ta đã mất, nên cùng Trần Nguyên Hãn tìm đến. - Cả Trần tiên sinh đã tới rồi ư Lê Lợi đột ngột quay phắt về phía Nguyễn Trãi, hỏi: - Thưa chúa công, người nông phu vừa đến với tôi chính là Trần huynh đó. Lê Lợi giọng vui hẳn lên: - Trời đã cho ta quân sư lại thêm một danh tướng. Có nhân tài giúp rập, việc lớn ắt mau thành. Từ đấy, mừng vì tìm được minh chủ, lại được minh chủ chấp nhận Bình Ngô sách, giữ luôn bên mình bàn đại sự, Nguyễn Trãi phấn chấn để hết tâm trí giúp Lê Lợi trong mọi việc. Một hôm nhân dân Lam Sơn xôn xao có nhiều người nhặt được lá rừng ghi tám chữ: "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần". Tin kỳ lạ đó được kể lại, truyền đi như lệnh trời truyền xuống, gây nên những chấn động mạnh mẽ trong nhân dân. Nghĩa quân đem lá nộp cho các tướng. Các tướng nộp cho Lê Lợi. Lê Lợi lúc đầu cũng ngạc nhiên. Nhưng sau khi xem xét thấy rõ có người dùng mỡ viết lên lá, kiến ăn mỡ hiện lên thành chữ thì biết ngay là kế của ai rồi. Cầm một chiếc lá đặt trước mặt Nguyễn Trãi, Lê Lợi mỉm cười nói: - Chẳng hay "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần" là ý trời đã định thực chăng? Nguyễn Trãi bình thản trả lời: - Thưa chúa công! Cho là ý trời cũng đúng vì giặc thì dùng chính lệnh khắt khe, hình phạt tàn khóc, làm việc bạo tàn, khiến thần dân đều căm giận. Ta khởi binh chống giặc, giải thoát cho dân là làm theo lòng dân. Thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết. Ý dân là ý trời. Cho nên cho là ý trời đã định thì cũng thế. Lê Lợi gật gù: - Ta có lời khen ngợi diệu kế của của quân sư đó. Cũng từ đó, hào trưởng các nơi tìm đến ngày một nhiều. Trai tráng trong vùng đến xin theo nghĩa quân ngày càng đông. Núi rừng Lam Sơn náo động tiếng reo hò của nghĩa quân, đang ngày đêm luyện tập võ nghệ. Thấy cuộc dấy binh đã thuận lợi, ngày mồng hai tháng giêng năm Mậu Tuất theo yêu cầu của Nguyễn Trãi và các tướng, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương và xuất quân dẹp giặc cứu dân. Chiếc lầu trúc cao ngất được dựng lên vội vã ngay trên bãi đất trước làng Bồ Đề. Trên tầng lầu thứ hai, trước
- chiếc kỷ thấp, giấy bút, nghiên mực bày biện sẵn sàng, Nguyễn Trãi đang đăm chiêu suy nghĩ về việc vào thành Đông Quan dụ hàng Vương Thông ngày hôm sau. Nguyễn biết, vào gặp tên giặc cáo già, lắm quỷ kế trong lúc hắn còn hy vọng trông chờ viện binh, không phải không nguy hiểm. Nhưng Nguyễn có chính nghĩa, có lẽ phải, và Nguyễn nào quản đến tính mạng mình. Điều Nguyễn đang bận tâm là phải tìm một đối sách thích hợp: Vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng cốt làm cho Vương Thông nhận rõ điều hơn lẽ thiệt. Nay quân giặc tâm trí đã nản, kế đã cùng, nhưng Vương Thông đường đường là một tên đại tướng, hắn cần giữ thể diện. Nếu không mở mắt cho hắn thấy vua Tuyên Đức nhà hắn đang bận cuộc chiến tranh với Thát Đát, nhất là để hắn thấy rõ lòng nhân nghĩa cao cả của vua ta, thì không dễ hắn đầu hàng. Nhớ tới những lần đã vào thành giặc dụ hàng, Nguyễn thấy rõ, mỗi lần giáp mặt với chúng, tuy nguy hiểm, nhưng đễ cảm hóa được chúng hơn. Ý nghĩ ấy củng cố thêm quyết định của Nguyễn lần vào Đông Quan này. Bỗng tự trong làng, tiếng trẻ nhỏ hát vọng lên lầu nghe rõ mồn một: "Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ đề cho ngựa ông ăn". Câu hát ngộ nghĩnh lặp đi lặp lại, khiến Nguyễn bất giác mỉm cười. Nguyễn rời chiếc kỷ, bước ra hiên lầu, hướng về phía lũ trẻ vừa hát vừa cắt cỏ. Tiếng hát trẻ thơ lại được cất lên trên mảnh đất này, mảnh đất mà tháng trước còn rên xiết đau thương nằm trong tay giặc. Và, không phải chỉ có cái làng nhỏ bé này, mà là cả một vùng non sông rộng lớn đã như sống lại từ khi nghĩa quân của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trùng điệp kéo về, vây chặt lấy Đông Quan, căn cứ lớn cuối cùng của giặc. Phải, Nguyễn Trãi xúc động thầm nhủ, nghĩa quân đã về. Nghĩa quân đã về trong sự đón tiếp ân cần ruột thịt của nhân dân suốt các ngả đường hành quân và cả trong tiếng hát ngộ nghĩnh nở trên môi các bé. Nhưng để có được chiến thắng này thật không dễ dàng. Nguyễn Trãi bỗng nhớ lại cuộc hành quân thần tốc, táo bạo của nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc mấy tháng trước. Lúc ấy cả miền đất rộng lớn từ Hải Vân đến Tam Điệp, quân giặc chỉ còn cố thủ ở các thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An và Thuận Hóa. Chúng đang ngày đêm trông chờ viện binh ở Đông Quan vào cứu. Thấy sức mình đã mạnh, Lê Lợi có ý định đem quân ra Bắc đánh thẳng vào Đông Quan, thì lại được tin vua Minh cử Thành Sơn hầu Vương Thông, đốc xuất mười vạn tinh binh sang tăng viện và trao Vương Thông quyền thống lĩnh toàn quân thủy bộ thay Trần Trí. Thấy quân giặc tăng viện, nhiều tướng nghĩa quân ngần ngại chưa muốn tiến quân ra Bắc. Lê Lợi phân vân hỏi Nguyễn Trãi: - Khi trước quân sư nói, thấy giặc mạnh thì phải tránh trong sự đánh nhau, thấy đánh lâu mới thắng thì nhục đồ binh khí. Ta đã nghe quân sư chỉ vậy không cốt hạ thành Nghệ An để chia quân đi đánh các nơi sơ hở của giặc. Đó là diệu kế. Nhưng nay mười vạn tinh binh của Vương Thông đã ngạo nghễ vào đất Bắc. Chẳng hay nếu ta tiến quân ra đó là đánh vào chỗ mạnh của giặc chăng? Hiểu được tâm trạng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đáp: - Tâu Vương thượng! Trong lúc giặc tăng viện cho thành Nghệ An ta lấy Diễn Châu, Thanh Hóa là tránh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu! Nhưng trong cách dụng binh cũng có lúc phải mau chóng như thần, máy then đóng cửa như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc lát chợt nóng chợt rét, thay đổi khôn lường thì mới dành được thắng lợi. Nay tiến ra Bắc, giặc Minh đông, ta phải ở thế lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Nhưng nếu dùng kỳ binh đánh quân hăng, lừa quân mệt, được thời có thế, hợp với lòng dân thì yếu hóa mạnh. Dám mong Vương thượng cứ cho quân tiến đánh. Lê Lợi không dấu được niềm vui: - Quân sư nói chính hợp ý ta.
- Rồi ngay đêm ấy, trái với phán đoán của nhiều tướng, Lê Lợi cho hội binh ở Lỗi Giang rồi cữ ba đạo quân theo ba đường khác nhau do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả, Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem tám ngàn quân và ba thớt voi rầm rộ tiến ra Bắc. Khuyên Lê Lợi tiến quân nhưng thấy quân mình quá ít so với giặc, nên dù tin vào chiến thắng, Nguyễn Trãi vẫn không khỏi lo lắng từng ngày trông chờ tin tức. Chỉ hơn nửa tháng sau, tin đạo quân Phạm Văn Xảo đốc xuất đã thắng lớn ở Ninh Kiều diệt hai ngàn giặc truyền về khiến cho Lê Lợi và Nguyễn Trãi thêm vững tin vào chiến sách của mình. Rồi trận Cầu Mới, Xa Lộc; đặc biệt trận thắng lẫy lừng ở Tốt Động, Chúc Động làm cho Nguyễn Trãi xúc động đến cả đêm không ngủ. Thế là chỉ mấy nghìn quân của Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đã cả phá mười vạn tinh binh của Vương Thông, giết đến năm vạn quân địch, bắt sống đến một vạn tên, làm tiêu tan mọi quỷ kế của Vương Thông. Khao quân sau trận đại thắng ấy, Lê Lợi liền rời đại bản doanh từ Lỗi Giang ra Bắc, và đội binh do Lê Lợi, Nguyễn Trãi thân đốc xuất đã đánh thẳng tới Đông Quan, dồn giặc Minh như lũ chuột chạy vào thành. "Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ đề cho ngựa ông ăn". Tiếng hát của các em bé lúc xa, lúc gần lại cất lên. Tiếng hát kéo Nguyễn Trãi trở về thực tại. - Thưa quân sư, Vương thượng cho lệnh triệu quân sư, Nguyễn Trãi giật mình quay lại thấy người nghĩa quân đang đứng ở bậc lên xuống của từng lầu. Nguyễn Trãi trìu mến nhìn người nghĩa quân: - Ngươi đi về. Ta sẽ lên ngay. Nguyễn Trãi đi lên tầng lầu thứ nhất. Theo hướng đó, Nguyễn nhìn rõ thành Đông Quan hiện còn trong tay giặc, nằm phơi mình run rẩy. Vừa trông thấy Nguyễn Trãi, Lê Lợi đứng dậy đón và vui vẻ nói: - Lưu Thanh đem quân thành Tam Giang ra hàng. Thế là chỉ hai tuần trăng ta đã thu được các thành Nghệ An, Điêu Diêu, Diễn Châu, Thị Cầu, Tam Giang không tốn một mũi tên. - Thế còn các thành Tây Đô, Tân Bình, Thuận Hóa, Khâu Ôn, Xương Giang thần cũng đã có thư dụ? - Chỉ cần Xương Giang, Khâu Ôn chưa hàng mà thôi. Ta có lời khen mừng quân sư đó. - Người Ngô hình nặng chính ác, mất hết lòng người. Vương thượng thì lấy nhân thay bạo, lấy trị thay loạn, bởi vậy, sĩ dân thỏa tấm lòng trung nghĩa, gắng rửa cái hổ lớn cho đất nước. Còn công của thần đâu đáng kể. Rồi đổi giọng, Nguyễn Trãi tiếp. Hiện Vương Thông xin hòa, hẹn ngày đầu hàng, nhưng quân giặc trong thành vẫn đào bới, khiêng vác nhốn nháo. Rõ là chúng chưa thật bụng. Lê Lợi giận dữ: - Đồ phản trắc! Quân sư hãy viết cho nó bức thư nữa, nói rõ điều hay lẽ thiệt cho nó biết. Bằng không, ta đã
- động binh thì quân chúng sẽ không còn mảnh giáp. Bỗng tầng lầu rung lên tiếng chân người vội vả. Xoay người về phía cửa, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thấy một nghĩa quân mồ hôi đẫm áo vừa thở gấp, vừa rút từ tay áo cuộn giấy bọc sáp, cung kính đưa cho Lê Lợi. - Tâu Vương thượng! Có tin cấp báo từ Pha Lũy gửi về. Chuyển bức thư đã xem xong cho Nguyễn Trãi, Lê Lợi nói qua hàm răng nghiến chặt: - Thằng nhãi Tuyên Dức! Mi lại sai mười lăm vạn viện binh cố tình gây thảm họa binh đao với ta. Lập tức, Lê Lợi cho triệu các tướng đến lầu Bồ Đề ngay đên ấy. Trong buổi họp, nhiều tướng xin hạ gấp thành Đông Quan rồi dốc toàn lực ra đánh quân cứu viện của giặc. Nhưng y theo kế của Nguyễn Trãi, Lê Lợi nói với các tướng: - Đánh thành là hạ sách, ta đánh thành vững hàng tháng, hàng năm không hạ nổi, quân ta sức mệt, khí nản. Nếu viện binh của giặc đến thì mặt trước mặt sau lưng đều bị giặc đánh, đó là con đường nguy. Sao bằng nuôi lấy sức quân, giữ lấy nhuệ khí để đợi viện binh của giặc. Viên binh của giặc bị phá thì quân trong thành tất phải hàng. Làm một việc được cả hai, đó mới là toàn kế vậy! Nguyễn Trãi nói tiếp những điều đã bàn với Lê Lợi: - Trong hai đạo viện binh của giặc thì đạo của Kiềm Quốc công Mộc Thạnh có tuổi, trải việc đời đã nhiều, đường đi lại hiểm trở, tất hắn không chịu tiến binh một cách sốc nổi. Còn đạo của An Viễn hầu Liễu Thăng cậy có quân lắm, ngựa nhiều, hắn ỷ thế khinh thường ta mà tiến quân ào ạt. Vậy ta phải dốc sức diệt đạo viện binh này. Diệt được đạo quân này thì đạo quân Mộc Thạnh không đánh mà tan; Vương Thông cùng kế phải xin hàng. Ngừng một lát, Nguyễn Trãi tiếp hướng về phía Lê Lợi: Còn lẽ nữa, theo ý thần, muốn chắc thắng đạo binh mười vạn của Liễu Thăng trước, phải hạ kỳ được thành Xương Giang đã. Bởi vì thành Xương Giang nằm trên lộ Lạng Sơn đến Đông Quan đánh Xương Giang là đánh thông đường để đại binh ta lên tận Lạng Sơn chặn giặc. Một nghĩa quân phóng ngựa vun vút vào danh trại. Nhảy từ trên mình con chiến mã đã sủi bọt mép xuống đất, người nghĩa quân vội lên chiếc lầu vút cao nhất. Tâu Vương thượng, thưa quân sư, người nghĩa quân vừa thở gấp vừa nói, quân ta đã đại thắng: Liễu Thăng bị chém ở núi mã An cùng với hơn vạn đầu giặc. Thôi Tụ, Hoàng Phúc bị lừa đến Xương Giang rồi bị bắt sống. Tiểu thần được lệnh đi gấp về báo tin và nộp các ấn tín của bọn tướng giặc. Lê Lợi, Nguyễn Trãi vui mừng khôn xiết. Rồi, sau khi thân mặt phủi lớp bùn trên tà áo chẽn của người nghĩa quân và tiễn ra tới cửa, Nguyễn Trãi trở lại nói với Lê Lợi: Vận nước thế là đã định đoạt. Thần kính mừng Vương thượng! Lê Lợi cảm động: - Nếu ta nghe lời các tướng dốc sức đánh Vương Thông trước rồi mới cự với Liễu Thăng hoặc không gấp hạ thành Xương Giang thì ta đâu thắng lợi nhanh chóng dường này. Chiến thắng này là nhờ chiến sách của quân sư. Không có quân sư ta không có ngày nay.
- Tiếng reo hò mừng tin thắng lớn của nghĩa quân làm náo động cả quân doanh. Hòa trong niềm vui đó, Lê Lợi mỉm cười với Nguyễn Trãi: - Bây giờ quân sư định liệu thế nào? Như đã lường trước sự việc, Nguyễn Trãi đáp: - Mộc Thạnh chưa chịu tiến binh. Vương Thông quỷ quyệt phản trắc là trông vào toán viện binh của Liễu Thăng. - Bây giờ ta gửi cho mỗi tên tướng giặc ít tù binh cùng với sắc thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng, Lê Lợi tươi cười ngắt lời Nguyễn Trãi, thì Mộc Thạnh chỉ có chạy, Vương Thông chỉ có hàng. Ý quân sư định thế chứ gì? - Tâu Vương thượng Nguyễn Trãi phấn chấn đáp: Quả là ý thần định thế. Nhưng "Chó cùng rứt giậu" nên vẫn phải đề phòng chúng liều chết. Vương thượng nên mật sai Phạm Văn Xảo một phen ra tay đánh Mộc Thạnh. Còn thần xin hạ lệnh cho các tướng vây chặt Đông Quan, một mặt dụ hàng, một mặt sẵn sàng giáp chiến. Lê Lợi trầm ngâm: - Lòng nhân nghĩa của quân sư cảm hóa được cả cỏ cây, muôn vật. Nhưng lần này Vương Thông còn tráo trở thì chúng không còn được tha tội chết. Đêm đã gần sáng mà Nguyễn Trãi vẫn chong đèn ngồi trước kỷ cắm cúi viết. Nguyễn không còn nhớ là Nguyễn đã thức mấy đêm như thế, và không phải Nguyễn không khỏi cảm thấy mệt mỏi. Song, niềm vui thắng trận, mong ước sắp rửa được nợ nước thù nhà, đã tiếp sức cho Nguyễn. Không vui sao được, khi mấy hôm trước, tin đạo viện binh của Mộc Thạnh bị đánh tan, Mộc Thạnh phải một mình một ngựa chạy tháo thân về nước. Còn Vương Thông, dẫu có cứng cổ chưa hàng, nhưng trước sau hắn sẽ phải đầu hàng. Nguyễn đang viết thơ thảo Bình Ngô đại cáo theo ủy thác của Lê Lợi. Nguyễn say sưa sống lại từng chặng gian nan của cuộc kháng chiến với tất cả sự rung động sâu sắc của tâm hồn mình. Nguyễn dừng bút, ngả người trên thành ghế cầm lấy bản thảo, đọc lại mấy đoạn đã viết từ đêm trước: "... Xét như nước Đại Việt ta Thật là một nước văn hiến... Trải Triệu Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Mà hào kiệt không bao giờ thiếu..." Nguyễn đọc lại hai lần đoạn văn và hài lòng vì nó đã lột tả được lòng tự hào về non sông đất nước; đặc biệt tuyên ngôn được dụng ý; nước Đại Việt và nước Ngô đều từng làm chủ một phương như nhau. Đọc lại, nhưng có lúc Nguyễn Trãi phải nghiến răng lại, có lúc muốn đứng vùng lên y như Nguyễn tận mắt nhìn giặc Minh hành hạ dân mình: "... Thui dân đen trên lò bạo ngược Vùi con đỏ dưới hố tai ương Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe Cậy binh gây hấn ác chứa gần hai chục năm..." Nguyễn đọc tiếp:
- "...Chính lúc nghĩa binh mới nổi. Là lúc thế giặc đang hăng..." Nguyễn buông tập giấy, đắm mình trong suy tưởng. Mười năm trời! Mười năm nằm gai nếm mật: "... Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần: Lúc Khôi Huyện quân không một lữ..." Nhưng cũng là mười năm bền bỉ, dẻo dai, mưu trí và dũng cảm, quyết tâm chống giặc để những chiến công chói lọi nở hoa và ghi khắc mãi vào sử sách, vào lòng người. Hào hứng ôn lại từng trận chiến thắng của nghĩa quân; nhớ lại lúc nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, phải rõ nước mặt thịt voi trận mà nay nghĩa quân đã trùng trùng, điệp điệp đang xiết chặt lấy Đông Quan, Nguyễn tưởng như mình đang đi giữa hàng quân, giẫm lên xác giặc. Nguyễn ghi vội những ý mới nảy. "... Voi uống nước, nước sông phải cạn. Gươm mài đá, đá cũng phải mòn Tổ kiếm hỏng làm toang đê vỡ Trận gió rung rụng trúc lá khô..." Nguyễn lại ngả người vào thành ghế, căng óc tìm ý rồi lại viết. Cho đến lúc phải lên đèn, Nguyễn mới viết những câu cuối, lòng phấn chấn lạ thường: "... Ôi một gươm đại định tạo thành công nghiệp vô song Bốn biển lặng yên, rộng ban duy tân tuyên cáo. Báo cáo xa gần mọi người cùng nghe". Lê Lợi cho mời Nguyễn Trãi vào đại bản doanh Bồ Đề để cùng tiếp sứ của Vương Thông, Sơn Thọ đến "Xin hòa" và rút quân về nước. Nghe Nguyễn Trãi, Lê Lợi ưng thuận cho hòa. Nhưng lúc ấy, các tướng lĩnh vì hờn căm sự tàn ngược của giặc nên đã khẩn khoản xin đánh. Một lần nữa, Lê Lợi lại hỏi ý kiến Nguyễn Trãi, nhân thể để Nguyễn nói với các tướng, Nguyễn Trãi tâu: - Giặc Minh hung tàn, lòng người chứa oán đã sâu, nay muốn giết hết bọn chúng đi để trả thù xưa không phải là không có lẽ. Tình hình quân giặc lúc này, mình muốn phá vào xào huyệt, ăn gan uống máu để rửa mối thâm thù không phải là một sự khó khăn. Nhưng thần trộm nghĩ như vậy sẽ kết mối thù với triều Minh quá sâu... Chi bằng ta thừa lúc này, kẻ kia lâm vào thế cùng, mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước. Lê Lợi và các tướng đều nghe theo. Ngày 22-11-1427, ở ngoại cửa Nam thành Đông Quan, một đài cao được dựng lên vội vã. Bọn Vương Thông mở cửa thành lúc nhúc chui ra làm lễ tuyên thệ trước mặt Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng nghĩa quân xin nộp thành để bảo toàn tính mạng rút về nước. Tám vạn quân giặc sống sót sau đó lủi thủi ra đi. Trong lễ chiến thắng tưng bừng ấy, Lê Lợi, Nguyễn Trãi dẫn đầu đoàn quân rầm rộ tiến vào Đông Quan. Đã được trở lại tự do nhưng Nguyễn Trãi buồn lắm. Dù Nguyễn Trãi vẫn được phong tước Quan phục hầu; về quan chức, Nguyễn vẫn giữ chức Nhập nội hành khiển làm bộ thượng thư, kiêm quản công khu mật viện như
- khi luận công ban thưởng sau chiến thắng giặc Minh, Nhưng Nguyễn không được vua Lê Thái Tổ tin dùng nữa. Nguyễn không lạ gì Hàn Tín trước khi bị Hán Cao Tổ giết đã biết rằng, những kẻ dùng mình khi sẽ không dùng mình khi đế nghiệp đã thành. Nguyễn còn hiểu về cuối đời Lê Lợi lâm bệnh, thái tử Nguyên Long còn nhỏ, lại ham chơi bời nên rất lo ngại uy tín của một số công thần. Nguyễn chưa gặp phải nạn lớn là vì trong tay Nguyễn không có binh quyền; có lẽ còn vì đời Nguyễn quá trong trắng, đến nỗi vua khó gán tội cho Nguyễn. Nguyễn vẫn còn làm quan. Nhưng làm quan mà như đi ở ẩn. Nỗi khổ tâm bị Lê Lợi bạc đãi; cảnh sống nghèo túng giày vò khiến Nguyễn phải bậm môi, kìm nước mắt khi gửi nỗi lòng vào bài thơ mới viết. Nguyễn ngậm ngùi đọc lại: "Góc thành Nam lều một gian No nước uống thiếu cơm ăn Con đòi trốn dường ai quyến Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn Ao bởi hẹp hòi không thả cá Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn. Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải Góc thành Nam lều một gian" Tuy nhiên, Nguyễn không cực lòng vì phải sống trong cảnh nghèo túng. Nguyễn bao giờ chẳng tự nhủ: "Bữa ăn dù có dưa muối Áo mặc nài chi gấm là". "Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh Áo bô quen cật vận xênh xang" Điều khiến cho Nguyễn đau đớn, thất vọng là hoài bão trị nước, an dân, giúp nghiệp trị bình thế là không làm được. Từ những ngày còn đọc binh thư, Nguyễn đã ước rằng, sau khi đánh đuổi được giặc Minh, sẽ xây dụng một xã hội thịnh trị như vua Nghiêu, vua Thuấn. Xã hội mà Nguyễn muốn kiến lập sau khi đuổi giặc Minh là xã hội mà vua phải xứng đáng làm vua. Người làm vua "Phải trọng nhân nghĩa" làm điều nhân nghĩa, phải "Thích nghe, thích xét", phải "Rũ lòng thương yêu muôn dân", "Chớ thưởng bậy vì tư ân", "Chớ phạt bừa vì tư nộ". Sau vua, Nguyễn chú ý đến những người "Cư quan nhiệm chức". Nguyễn muốn "Người có chức vụ coi quân trị dân", phải theo đạo nhân nghĩa của vua. Người đó không được "Che ác với vua" không "Kết lập bè đảng", không "Vụ ích cho riêng mình". Người "Cư quan nhiệm chức còn phải là người rất thẹn thùng" về "đẹp cung thất, cao đài tạ", và cũng "Thẹn thùng" về những việc làm "Theo ý mình, ức lòng người". Họ phải luôn nhớ rằng "Những quy mô to lớn, cao lồng lộng đều là sức lao khổ của nhân dân", khi "Ăn lộc" phải "đền ơn kẻ cấy cày", không được "Sưu cao thế nặng, vơ vét của dân cho nhiều". Khuyên răn của người khác, trước hết Nguyễn tự răn mình: "Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ Áo người vô nghĩa mặc, chẳng thà" Nguyễn luôn tự nhủ lòng: "Lòng thề bạc đen dầu nợ biến Ta thì nhân nghĩa chớ loàn đan".
- Sống giữa triều đình phong kiến, Nguyễn chưa bao giờ mưu cầu cuộc sống giàu sang phú quý. Nguyễn luôn vui với cuộc sống giản dị, thanh cao và khuyên mọi người sống giản dị, thanh cao, Nguyễn nhớ Đỗ Mộng Tuân, bạn đỗ cùng khoa với Nguyễn, có lần đi Côn Sơn phải nói: "Nhà quan tri tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước; bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở". Nguyễn lặng đi ngồi suy tưởng. Nguyễn cũng không nhớ Nguyễn ngồi như thế từ bao giờ, Nguyễn chỉ thấy càng suy tưởng càng thấy chản nản. Nguyễn tự hỏi: Phải chăng, ước muốn một xã hội thịnh trị, mọi người đều no đủ, thư thái "Mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặng thì đi ngủ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn" là trái với ý vua Thái Tổ. Lại nữa, cuộc sống thanh đạm, vui với cái nghèo của Nguyễn, cũng là một cớ để bọn Lê Sát, Lê Vân ghen ghét, kéo bè đảng chống lại Nguyễn? Không thể khác được, Nguyễn Trãi quyết định trở về Côn Sơn với tâm sự u uất: "Ngoài năm mươi tuổi chân thế Ất đã tròn bằng nước ở bầu". Trở về Côn Sơn vui với rặng thông, rừng trúc, lánh xa triều đình bội bạc, Nguyễn Trãi thấy tâm hồn thư thái đôi chút. Chưa lúc nào Nguyễn làm nhiều thơ như là lần trở về Côn Sơn này. Làm thơ để nói ý mình về nhiều lẽ đời, đã thực sự trở thành niềm vui của Nguyễn. Mang theo tâm sự của con người thất vọng trước những hoài bão lớn, Nguyễn biết dù thơ vẫn có cái hùng, cái đẹp của tạo vật, nhưng không giấu được nỗi buồn trải ra mênh mông. Nguyễn đọc lại bài "Côn Sơn ca" vừa làm hôm trước mà lòng còn xúc động: "Côn Sơn có khe Tiếng nước chảy rì rầm Ta lấy làm đàn cầm Côn Sơn có đá Mưa xối rêu xanh đậm Ta lấy làm chiếu thảm Trong núi có thông Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong Trong rừng có trúc Nghìn mẫu in biếc lụa Ta tha hồ ngâm nga bên gốc..." Nguyễn dừng lại thở dài ngao ngán. Nguyễn đã muốn đắm mình trong muôn màu hoa lá để làm kẻ "Di thần di lão" mà cảnh như sinh tình, nhắc nhở: "... Người sao còn chửa đi về Nửa đời bụi bặm còn lăn lóc Muôn chung nghìn đỉnh có làm gì Nước lã cơm rau miễn tri túc..." Nguyễn Trãi lướt qua để đọc phần cuối, lòng băn khoăn như khi hạ bút làm thơ: "... Người đời trăm tuổi Rốt cuộc như thảo mọc Vui buồn lo sướng đổi thay nhau Một tuổi một héo vẫn tương tục
- Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên Chết rồi ai vinh với ai nhục? Nhân gian nếu có bọn sao do Khuyên hãy nghe ta ca một khúc. " Trở về Côn Sơn vùng ra khỏi vòng vây ngột ngạt của bọn Lê Sát, Lê Vân, Nguyễn không muốn nhắc đến chúng nữa. Nhưng Nguyễn không làm được điều ấy. Nguyễn vẫn thấy được bọn tham quan như loài cỏ xấu, cứ mọc lên xanh tươi mà Nguyễn thì bất lực chưa chặn chúng lại được, Nguyễn cầm bút ghi ý thơ: "... Lòng người một sự yêm chưng một Đèn khách mười thu lạnh hết mười. Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn Hoa thì hay héo cỏ thường tươi". Có lúc Nguyễn định yên tâm với việc "Cày nhàn câu vắng" nhưng Nguyễn nào hết băn khoăn: " Còn một lòng âu lo việc nước Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung " Vì vậy, sau khi Lê Lợi chết, được vua Lê Thái Tôn vời đến, Nguyễn Trãi lại sẵn lòng ra giúp nước. Ngay từ những ngày trở lại triều đình, thấy vua còn trẻ lại ham chơi bời, mặc cho bọn Lê Sát lộng hành Nguyễn không khỏi băn khoăn. Nhưng tin vào sự trong sạch của mình, lo đến dân đến nước, Nguyễn yên lòng gánh vác công việc. Nhưng bọn tham quan đâu có để cho Nguyễn làm việc. Năm 1434, vua Lê Thái Tôn sai Nguyễn Trãi viết biểu văn để sang nhà Minh cầu phong. Tờ biểu viết xong, viên nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và viên học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi mấy chữ. Vốn đã biết bọn này dốt nát lại hay đục khoét dân, bè đảng của đại tư đồ (Tể tướng) Lê Sát, Nguyễn trãi nổi giận mắng chúng: - Đổi với chác gì? Các ông giỏi sao không viết thay tôi? Hiện nay trong đương hạn hán mà sở dĩ có tai nạn ấy chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng vơ vét của dân cho nhiều, nên trời mới giáng tai tỏ ý trừng phạt. Thúc Huệ đem lời Nguyễn mách với Lê Sát, Lê Vân. Bị chỉ trán vạch tên, bọn chúng lồng lộn tức tối. Theo lệnh của Lê Sát, Lê Vân tức tốc gặp Nguyễn Trãi, mặt tái đi vì tức giận: - Gây ra tai nạn không phải là lội tự bọn ty thuộc, mà chính bởi vua và tướng, sao ông quở trách nặng nề như vậy? Nguyễn Trãi nghĩ bụng: Bọn này đem vua ra dọa mình đây. Nhưng Nguyễn không nao núng, trả lời: - Thúc Huệ là kẻ tài thì rất tầm thường, mà lại có thói bòn vét, hắn ở vào địa vị then chốt, mỗi khi có việc tâu bày chỉ thấy bàn sự đục khoét của dân cho nặng để làm giàu cho công khố, cốt làm vui lòng Vương thượng. Hằn thù cũ chưa qua thì Nguyễn Trãi lại đụng đầu ngay với Lê Sát. Cũng năm 1434, có bảy tên trộm tái phạm đáng tội chết, vua Thái Tôn hỏi ý Nguyễn, Nguyễn tâu: - Hình phạt không bằng nhân nghĩa là rõ ràng rồi. Bây giờ một lúc giết bảy mạng người thì e không phải việc làm có đức cao.
- Lê Thái Tôn nghe ra. Thấy vậy, Lê Sát bảo Nguyễn Trãi, giọng mỉa mai: - Ông là người nhân nghĩa, có thể cảm hóa kẻ ác trở nên người thiện thì đây xin giao bọn trộm cho ông. Nguyễn Trãi đáp ngay, không lộ sự khó chịu: Bọn chúng là đồ hung ác gian xảo. Pháp luật và chế độ của triều đình còn không răn chữa được chúng nữa là Trãi này có đức độ gì mà cảm hóa nỗi. Về sau, vua nghiêng theo ý Nguyễn Trãi, chỉ khép tội chém hai tên cầm đầu, còn năm tên khác khép vào tội phát lưu. Từ đấy, bọn Lê Sát, Lê Vân, Lê Ngân càng thêm căm thù Nguyễn Trãi và chúng tìm mọi cách để hãm hại Nguyễn, nhổ cái gai làm chúng ngày đêm khó chịu ở trong triều. Biết vậy, Nguyễn càng giữ mình cho sạch và không bỏ sót hành vi tội lỗi nào của chúng, làm điều nhân nghĩa cho muôn họ. Đầu năm 1437, thấy Nguyễn Trãi có tài và trước sau giữ trọn tấm lòng trung, Lê Thái Tôn lại sai Nguyễn Trãi và hoạn quan Lương Đăng trông coi việc làm xe loan và thẩm định nhã nhạc. Thấy rõ vua có chiều hướng ăn chơi xa xỉ trong lúc dân mọn đang đói khổ, Nguyễn Trãi lựa lời tâu: Thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc chính là phải thời lắm. Song cây không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, âm thanh là văn của nhạc. Thần vâng theo chiếu chỉ thẩm định nhã nhạc không dám không hết lòng: Song học vấn sơ sài, nông cạn sợ trong ánh thanh luật khó làm được cho hài hòa. Dám mong bệ hạ rũ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu... Đó tức là cái gốc của nhạc. Vua Thái Tôn ban khen và nhận lời tâu của Nguyễn. Câu chuyện về "Lễ nhạc" tưởng đã yên ổn. Nào ngờ cuối năm ấy, Lương Đăng lại dâng kiến nghị về nghi thức các buổi coi chầu hoặc yến tiệc trong những ngày sinh nhật của vua hay tết nguyên đán. Thấy nghi thức của Lương Đăng soạn ra có nhiều chỗ lố lăng, Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Liễu tâu với vua: - Lễ nhạc là cốt ở người mới đặt ra được. Phải là bậc tài đức như Chu Công rồi sau mới không chê trách được việc đặt lễ, chế nhạc. Nay nhà vua để cho bọn bầy tôi hèn mọn ở trong cung chuyên việc xếp đặt lễ nhạc. Như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao? Vả lại việc làm của Lương Đăng đều là dối vua lừa dưới, không căn cứ vào đâu cả. Lương Đăng gượng gạo tâu: - Thần là kẻ vô học, không biết chế độ thời xưa ra sao. Những việc bây làm đó chỉ là biết thế nào làm thế ấy mà thôi. Nguyễn Liễu vốn bọn tay chân của Lê Sát nên không kiềm được sự tức giận, nói cho hả: - Muôn tâu bệ hạ! Từ xưa tới nay chưa có bao giờ hoạn quan lại được tự chuyên làm nát thiên hạ như vậy. Vừa lúc đó tên hoạn quan Đinh Thắng, vốn là bộ hạ của Lê Sát, từ trong nội đi ra, nghe thấy, mắng lớn rằng:
- - Hoạn quan làm gì mà nát thiên hạ? Nếu nát thiên hạ thì phải chém đầu mày. Quá nghe lời xúi xỉn, dèm pha của bọn Lê Sát, vua Thái Tôn bắt giam Nguyễn Liễu giao cho hình quan xét xử. Liễu bị kêt tội chém đầu. Nhưng vua xuống chiếu, giảm xuống tội thích vào mặt và bắt đày đi xa. Biết ở lại triều đình cũng không "Cứu cho khắp" được muôn họ, Nguyễn Trãi cáo quan trở về Côn Sơn. Đó là năm 1438. Sau ngày 2-2-1442, trước điện Hội Anh, các sĩ nhân bốn phương trẩy kinh đi Hội đã lều chõng sẵn sàng, đứng thành hàng theo lệnh viên quan giám thị chờ đợi. Ở hàng đầu của đám sĩ nhân, Nguyễn Trực làm ra bộ quan trọng nói với bạn bên cạnh: - Kỳ thi này do quan Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi chủ sự đấy! Người bạn tỏ ra hiểu biết: - Quan hành khiển mới từ Côn Sơn hồi triều ba hôm trước. Thấy quan trẩy kinh, anh em mình phấn chấn lắm. Được người liêm khiết, đức độ lại là bậc văn chương siêu việt như vậy chủ sự, thì chẳng còn ai cho là không công bằng. Nghe được câu chuyện, một sĩ nhân ở hàng sau, ngạc nhiên hỏi: - Tôi nghe rằng quan hành khiển đã xin cáo quan mấy năm trước rồi mà. - Ô quan anh chẳng biết gì cả, Nguyễn Trực đáp, quan về Côn Sơn được một năm thì đức vua lại vời ra giúp nước. Lúc ấy quan đã sáu mươi mốt tuổi và mấy lần khước từ không được. - Thế ra đức vua đã tin dùng quan chứ không như tiên đế. Nguyễn Trực sôi nổi nói thêm, cố làm ra hiểu thời cuộc: - Bây giờ đức Thái Tôn đã nhìn thấy triều chính đổ nát nên nắm lấy mọi quyền hành và trừng trị bọn quan xu nịnh. Vua đã cách chức tể tướng Lê Sát, giết Hạ Đằng Đắc, giáng chức bọn tay chân của Lê Sát là Lê Văn Linh, Lê Hy, rồi cuối cùng giết cả Lê Sát và Lê Ngân. - À ra thế! Nếu không được quan anh chỉ bảo, ở chốn rừng xanh, tôi đâu biết. Câu chuyện chấm dứt bằng một hồi chuông lanh lảnh cất lên. - Hoàng đế ngự giá, tiếng viên quan nội giám tuần xước thét lớn. Các sĩ nhân nín thở, cúi rạp mình hồi lâu. Vừa được bình thân, Nguyễn Trực giọng vui vẻ, nói thầm với bạn: - Đấy, quan hành khiển, người có bộ râu bạc, đứng sau đức vua ấy. Có nhiều tiếng suýt xoa: - Trong quan điềm đạm mà quắc thước quá nhỉ! Lại một hồi chuông hiệu dóng dả.
- Các sĩ nhân đứng như hóa đá. Vua Thái Tôn thân ra đầu bài văn sách: "Luận về phép trị nước của các đế vương". Xong thủ tục, vua lui về cung. Nguyễn Trãi cùng quan giám khảo cũng lần lượt về chỗ ở theo sự sắp đặt của viên quan giám thị. Khi đã ngồi trước kỷ sơn phủ gấm, một lần nữa Nguyễn Trãi suy nghĩ về đề thi do Nguyễn thảo ra và được vua chấp thuận. Thâm ý của Nguyễn là muốn cho các sĩ nhân biết lĩnh hội phép trị nước của tổ tiên, nhân thể cũng là cách hướng các sĩ nhân phải đem học vấn ứng dụng cho đời, biết kiến giải thời cuộc, mong giúp cho việc hưng quốc an dân. Rồi Nguyễn lan man nhớ lại kỷ niệm ngày Nguyễn đi thi và cảnh Nguyễn hiện tại. Nguyễn vẫn thầm mừng lần này trở về triều nhận chức cũ kiêm trung thư sảnh tam quán sự và coi cả quân dân hai đạo Đông Bắc mà vua mới gia phong, là thời kỳ Nguyễn bằng lòng nhất. Và, vua Thái Tôn cho nắm lấy triều chính đã bắt đầu nghe lời tâu bày về chủ trương của Nguyễn. Hơn thế nữa, ông vua mười bảy tuổi này cũng đã nảy sinh tấm lòng tưởng mộ Nghĩa Thuấn, khoan nới việc hình ngục. Cứ đà ấy, Nguyễn Trãi sẽ có cơ thi triển tài năng, dựng cho nước được nền thịnh trị thái bình. Nguyễn mãi suy nghĩ cho đến lúc có hiệu lệnh giục các sĩ nhân nộp quyển chấm và làm thủ tục cho đề thi khác. Mấy ngày sau cùng các bậc văn bá ngồi chầu vua nghe đọc các quyển thi để định cao thấp, vua Thái Tôn đã y theo Nguyễn Trãi lấy Nguyễn Trực đỗ trạng. Nguyễn Trãi đã chuẩn bị xong chuyến đi kinh lý dài ngày ở Bắc Đạo. Côn Sơn vốn đã đẹp, nhưng chưa bao giờ Nguyễn thấy đẹp như sáng nay. Rừng trúc, rừng thông nhuốm nắng sớm trông như tâm thảm lụa vàng óng. Cũng chưa bao giờ Nguyễn phấn chấn như lần đi kinh lý này. Nguyễn vui vì hơn tuần trăng trước, vua Thái Tôn nhân đi duyệt võ ở Chí Linh (Hải Dương) đã ngự giá tới Côn Sơn thăm Nguyễn. Cuộc đón rước định theo nghi lễ vua tôi, nhưng trái với lệ thường, vua cho được thân mật như người nhà. Vua mới đi được một tuần trăng. Cả Nguyễn Thị, người vợ yêu của Nguyễn, cũng được vua cho theo xa giá hồi triều. Lưu luyến xen lẫn mừng vui. Nhưng trước hết là vui vì Nguyễn thấy rõ vua Thái Tôn ngày càng tin dùng và kính trọng Nguyễn. Nguyễn Thị cũng được vua phong chức lễ nghi nữ học sĩ, cho ra vào nơi cung cấm, dạy dỗ các cung nhân. Thay đôi hài cỏ bằng đôi giày trận, Nguyễn thong dong lên yên ngựa, cùng toán lính hầu cận. Ngựa chạy gằn để lại đằng sau căn nhà lá ấm cúng. Rừng thông nhấp nhô, nô giỡn với nắng, với tiếng nhạc ngựa tản nhanh trong gió sớm. Ngựa qua một chỗ ngoặt, Nguyễn bỗng thấy một kỵ sĩ đang phóng con chiến mã chạy ngược chiều với Nguyễn. Vừa kịp nhận ra người lính cấm vệ quen thuộc của triều đình, thì người đó đã phóng từ trên mình ngựa xuống đất, mặt tái đi: - Thưa quan hành khiển! Vua Thái Tôn đã băng hà ở vườn Lệ Chi sau khi đi duyệt võ ở Chí Linh về. Và Tôn phu nhân đã bị bắt giam từ đó. Nguyễn Trãi đánh rơi sợi cương đang cầm trongtay, giọng lạc đi: - Vua Thái Tôn băng hà, Thị Lộ vợ ta bị bắt. Căn nguyên bởi đâu? Người lính cấm vệ run run đáp: - Quan phụ chính nói rằng Tôn phu nhân đã đầu độc vua do quan chủ mưu. Ngày hôm nay quan Thái phó Lê Khả theo mệnh vua để lại, sẽ lập hoàng tử Bang Cơ lên nối ngôi. Đã có lệnh bắt quan và quý quyến ba tộc.
- Nghe tin dữ, con lén đi từ đêm báo quan để quan định liệu. - Ta có ngờ đâu đến nông nỗi này. Nguyễn Trãi nói, giọng đau đớn. Cả bọn chúng đã đồng mưu để hãm hại ta! Rồi, sau phút bàng hoàng, nét mặt Nguyễn Trãi rắn đanh lại. - Cảm ơn người đã vì ta mà không kể đến tính mạng. Nguyễn nắm lấy cương ngựa, cổ nhân từng nói: Ngọc tuy ngọc vọn nhưng không hủy được sắc trắng. Trúc đốt cháy được nhưng không hủy được gióng thẳng. Ta dù phải chết oan theo mệnh trời nhưng lòng ta ngay, người đời sẽ chứng rõ. Nói xong, Nguyễn Trãi cho toán lính hầu cận trở về, còn Nguyễn thúc ngựa gióng thẳng tới Kinh. Vốn yêu Nguyễn như cha, toán lính hầu cận nài nỉ xin theo Nguyễn hồi triều. Họ không kiềm được nước mắt khi biết Nguyễn đang đi vào cõi chết. Nửa tháng sau, một trong những người lính hầu cận của Nguyễn Trãi trở lại Côn Sơn kể lại cho dân ở đó rằng: Ngày hôm quan hành khiển tới Kinh (15-9-1442), lập tức quan bị bắt và bị tống ngục tối. Ngày hôm sau, bà Nguyễn Phi (Nguyễn Thị Anh) người có tư thù với quan hành khiển, ngồi sau rèm trông nom việc nước thay con mới hai tuổi vừa được nối ngôi vua đã sai hình quan đem vụ án "Nguyễn Trãi chủ mưu đầu độc vua" ra xử trước Đình Cúc. Không ai cầm được nước mắt, người lính nói khi thấy Tôn phu nhân bị giải ra trước, đầu tóc rũ rượi, máu mồm, máu mũi loang lỗ trên mặt, trên cổ. Còn quan hành khiển thì bị trói quặt cánh khủyu, tóc đã bạc trắng, người gầy tọp hẳn đi bị giải ra sao. Trong khi cha Tôn phu nhân, hình quan trước sau chỉ gặng hỏi một điều: - Có phải mày đã tiến độc cho đại đức hoàng đế và cứu mưu thí nghịch ấy là do Nguyễn Trãi chủ sự không? Nghe hỏi Tôn phu nhân trước sau như một kêu oan. Nhưng mỗi lần như thế, hình quan lại thét lên lính xúm vào đánh đập tàn nhẫn. Bị đánh đau có lúc Tôn phu nhân lặng đi chết ngất. Cuối cùng, không chịu được cực hình, Tôn phu nhân phải nhận như lời hình quan hỏi. Thế là quan hình khiển phải khép vào tội tru di tam tộc. Ngừng lại để lau những giọt nước mắt vừa tràn ra, người lính kể tiếp: - Ba ngày sau trên pháp trường dày đặc lính cấm vệ, sau khi viên quan đề hình tuyên đọc bản án, lần lượt quan hành khiển và Tôn phu nhân và tất cả các con cháu đều bị chém. Phải nhìn cái chết thê thảm của quan hành khiển. Người lính nói, giọng trầm hẳn đi, tất cả người xem đều khóc than khôn xiết. Hai viên hoạn quan lỡ miệng than oan cho quan hành khiển cũng bị đem chém đầu. Còn đây nữa, người lính lục tìm trong túi áo, tờ giấy gấp vuông vắn đưa ra trước mặt mọi người nói, tôi còn sao được bài thơ cảm thán của quan hành khiển làm trước khi chết. Một thanh niên tự nhận là học trò của Nguyễn Trãi tay run run đón lấy bài thơ rồi đọc to cho mọi người cùng nghe: "Cuộc đời chìm nổi mấy mươi năm Núi cũ khe xưa ướt đã lầm Danh giá bỗng mang vòng họa thực
- Lòng ngay khôn gỡ miệng quân phàm Tự văn chưa mất lòng còn đoái Định mệnh thôi đành chết cũng cam Khó gửi nửa lời lên bệ ngọc Tỏ lòng oan tuổi buổi tù giam". Đọc xong bài thơ, người thanh niên òa lên khoc nức nở. Những người xung quanh cũng vừa khóc theo vừa ngậm ngùi kể cho nhau nghe những kỷ niệm êm đẹp về Nguyễn Trãi mà năm tháng đã khắc sâu vào lòng dạ họ. Vua Lê Nhân Tông một hôm cùng các văn quan trong triều lên Bí thư các xem di bản của Nguyễn Trãi, đã xúc động nói với quầng thần: - Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp giặc, giúp đức Thái Tôn sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bảng triều không ai sánh bằng. Không may bị kẻ phụ gây biến mà người lương thiện mắc oan, thật rất đáng thương. Hai mươi năm sau, kể từ khi Nguyễn Trãi bị hại, vua Lê Thánh Tôn xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi và cấp cho con cháu Nguyễn một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng vị "Khai quốc công thần" chết oan. Trong khúc "Quỳnh uyển ca", vua Thánh Tông nhận rằng: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê) Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam Nguyễn Trãi , hiệu là Ức Trai , 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông được xem là một anh hùng dân tộc của Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà Trần. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
- Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi: - Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo". Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân: - Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).
- Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Đây là 1 vài câu thơ nói lên tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta
Tháng 7/1442, vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh đã về ngự ở chỗ Nguyễn Trãi trên chùa Côn Sơn. Đến ngày 4/8/1442, vua về đến Lệ Chi Viên thì đột ngột qua đời. Mọi người đều nói người giết vua là Nguyễn Thị Lộ, vợ Nguyễn Trãi. Cả gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, ngay sau việc này, nhiều người đã cho rằng Nguyễn Trãi bị oan.
Vua Lê Nhân Tông từng khẳng định công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi như sau: "Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng". Tuy nhiên, ông vua này chưa minh oan cho Nguyễn Trãi.
Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù Bá, ban cho con trai Nguyễn Trãi, người sống sót duy nhất trong gia đình sau vụ án Lệ Chi Viên, là Nguyễn Anh Vũ chức huyện quan. Sau đó, Lê Thánh Tông còn ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi, nhờ đó mà một phần quan trọng các di sản văn hóa của Nguyễn Trãi còn tồn tại đến ngày nay.
Mặc dù vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, nhưng Nguyễn Thị Lộ, vợ Nguyễn Trãi, người bị nghi là hung thủ chính, chưa được vua minh oan. Sử sách không nhắc gì đến việc này.
Mấy ngày hôm nay, chẳng hiểu sao trong nhà bé Mây xuất hiện một lũ chuột. Chúng tinh quái phá phách, nghịch ngợm đồ đạc khắp nơi. Mọi người vô cùng bực mình và khó chịu. Phải tốn công lắm, bé Mây mới nghĩ ra một kế.
Thế là chiều hôm ấy, một buổi chiều mát mẻ và dễ chịu, Mây rủ mèo con cùng nhau đặt bẫy chuột. Bé chuẩn bị rất cẩn thận và chu đáo: nào cá nướng thơm lừng, chiếc cạm sắt mới tinh, rồi từ từ đổ cá vào bẫy. Đêm hôm đó, nằm trên giường, cơn gió mùa thu dịu mát lùa vào ô cửa sổ. Bên ngoài trăng sáng vằng vặc, xung quanh là trăm ngàn ngôi sao kỳ diệu đang làm sáng cả bầu trời trông như những ánh nến lung linh huyền ảo, bé Mây nằm và suy nghĩ, tưởng tượng. Chắc hẳn giờ này, lũ chuột kia không kìm nén được sự tham lam đã chui vào bẫy của ta đánh chén món cá rồi đây. Bé Mây tự nhủ và lại thì thầm tâm sự với mèo con. Mèo ta thích chí, tán thành ý tưởng của cô chủ. Nó khẽ rung rung bộ ria mép, gật gù tán thưởng. Thế rồi, bé Mây đã chìm sâu vào giấc ngủ với giấc mơ về một lồng đầy chuột mắc bẫy rồi cô cùng người bạn chí thân Mèo con, đem chúng ra xét tội. Nhất định bọn phá hoại này phải bị trừng trị thích đáng dù chúng có khóc ròng xin tha!
Sáng sớm, khi những ánh nắng ban mai rực rỡ chiếu qua chiếc giường nhỏ bé xinh xắn, bé Mây vùng dậy, bừng tỉnh, chạy vội xuống bếp xem tình hình. Ôi thôi! Cái bẫy đã sập, cá cũng hết, chẳng thấy con chuột tinh quái nào mà kẻ sa bẫy bây giờ lại chính là Mèo con. Bé Mây sững sờ và ngỡ ngàng nhưng rồi cô chợt hiểu ra rằng cô đã quá ngây thơ. Thì ra nụ cười và sự đồng tình của Mèo con hôm qua đã ẩn chứa một âm mưu của Mèo. Đúng thế, với Mèo còn gì thích hơn cá nướng? Đó là món ăn sở trường của chú ta! Bé Mây cảm thấy rất tiếc cho kế hoạch của mình đã đổ bể nhưng hơn hết, qua chuyện này, cô bé cũng tự rút ra cho mình một kinh nghiệm, một bài học quý giá trong cuộc sống.
bn mo link hoc tot ngu van nha ko thi kb mih tu van cho me mih la giao vien vsn
Có 3 nguồn chính sử đề cập đến vụ án Lệ Chi Viên là Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Lịch triều hiến chương loại chí.
Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40[8] được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất[5].
Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngay sau khi thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt Nguyễn Trãi tru di tam tộc vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này[5].
Tháng 7 âm lịch, Lê Thái Tông tuần hành phía đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi đón mời, nhà vua đến chơi chùa núi Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ Nguyễn Trãi, người đẹp mà lại hay chữ. Nhà vua nghe tiếng, trước đây từng mời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó, sàm sỡ với Thị Lộ. Trong đợt đi tuần phía đông, Thái Tông quay về đến trại Vải làng Đại Lại, huyện Gia Định, thì mắc chứng sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm, nhà vua mất[9].
Trăm quan giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự giá về kinh đô mới phát tang. Người ta đều nói Thị Lộ giết vua, bèn bắt giết Thị Lộ. Ngay sau khi thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt và giết Nguyễn Trãi, tru di cả họ. Người ta đều cho là oan[9].
Năm 1442, Nguyễn Trãi 63 tuổi, vợ Nguyễn Trãi là Thị Lộ, vào hầu vua, dùng chất độc giết vua, triều đình kết án phải giết ba họ.
Trong 3 sách chính sử nêu trên, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng thống nhất xác nhận Lê Thái Tông bị bạo bệnh mà qua đời, và sau khi thi hài Lê Thái Tông được đưa về kinh đô thì Nguyễn Thị Lộ bị mọi người đồng loạt buộc tội giết vua. Riêng Lịch triều hiến chương loại chí xác nhận Nguyễn Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua.