Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Muối
Là thực phẩm bị hạn chế nhất trong tháp dinh dưỡng vì những tác hại đối với huyết áp. Ngoại trừ việc phải sử dụng muối để nấu ăn, bạn không nên ăn quá mặn, hạn chế các loại thực phẩm muối như cà muối, chanh muối, mơ muối, dưa muối, cá muối. Bạn có thể tham khảo bài viết về lượng muối ăn nên ăn trong 1 ngày để điều chỉnh lượng muối tốt hơn.
Đường
Ở vị trí bị hạn chế thứ 2 sau muối, việc ăn quá nhiều đường dẫn đến sự gia tăng lượng đường trong máu và nguy cơ tiểu đường, béo phì…Vì thế, thay vì ăn đường trong thức phẩm công nghiệp (bánh, kẹo, nước ngọt…), bạn hãy ưu tiên cho cơ thể được hấp thụ các loại đường tự nhiên từ rau củ, trái cây.
Tham khảo về trắc nghiệm để biết bạn có mắc bệnh tiểu đường hay không.
Chất béo
Dầu ăn cung cấp chất béo giúp cơ thể hấp thụ 1 số vitamin có lợi như A, E, D, K. Bạn có thể sử dụng dầu ăn có nguồn gốc từ thực vật thay cho dầu ăn thông thường nhưng cũng không nên ăn quá nhiều đồ ăn chiên đầy dầu mỡ đâu nhé!.
Đậu phộng là loại hạt chứa đến 80% acid béo không no và 20% acib béo no, cung cấp cho cơ thể một lượng chất béo tự nhiên và lành mạnh.
Hạt vừng chứa chất béo đơn, chất béo bão hòa, muối khoáng, acid amin và các vitamin. Ngoài ra, hạt vừng còn có mangan, đồng, kẽm, canxi, magie, chất xơ, phốt pho, vitamin B1, có khả năng giảm cholesterol, ngăn ngừa bệnh cao huyết áp.
Mỡ động vật gồm có mỡ heo, mỡ bò, mỡ cừu… Bạn có thể ăn nhưng cần hạn chế số lượng.
Bơ động vật từ sữa bò và các động vật có vú khác chứa nhiều chất béo bão hòa và cholesterol nên Hiệp hội Tim mạch Mỹ đã khuyến cáo không nên ăn quá 7% trên tổng số calories hàng ngày.
Chất đạm (Đạm động vật và Đạm thực vật)
Đạm cung cấp protein, là thành phần quan trọng giúp phục hồi sau chấn thương, chất đạm giúp phục hồi cơ bắp và các mô trong cơ thể, thành phần chủ yếu tạo ra các hooc-mon và enzyme.
Đạm thực vật phổ biến nhất là trong đậu phụ. Đạm động vật thì rất đa dạng, từ tôm, cua, cá, thịt gia cầm, gia súc… đến trứng, sữa các loại.
Quả chín
Quả chín là nguồn cung cấp vitamin, khoáng chất giúp cơ thể khỏe mạnh và hệ tiêu hóa hoạt động trơn tru. Ngoài ra, quả chín còn là nguồn cung cấp chất xơ dồi dào, qua đó, ăn quả chín sẽ giảm nguy cơ đột quỵ hiệu quả.
Các loại quả chín bạn nên ăn như : đu đủ, xoài, chuối, nho…
Rau xanh
Tương tự như quả chín, rau xanh chứa hàm lượng vitamin, khoáng chất và chất xơ rất cao. Bạn có thể ăn rau xanh rất đa dạng, từ các loại rau màu xanh, màu vàng/đỏ đến màu trắng đều được.
Lương thực
Nhóm lương thực cung cấp một lượng tinh bột đáng kể và cần thiết cho nhu cầu hoạt động hàng ngày của bạn, gồm có gạo, mì, bánh, khoai tây…nói chung là các loại thực phẩm chứa tinh bột.
+ Chất đạm : đun ở nhiệt độ quá cao, giá trị dinh dưỡng giảm
+ Chất béo :đun quá sôi-> sinh tố A bị phân hủy, chất béo biến chất
+ Chất đường bột : đun khô 180° đường biến mất; nhiệtđộ cao -> tinh bột cháy đen, chất dinh dưỡng bị tiêu hủy
+ Chất khoáng : khi đun, 1 phần sẽ hòa tan vào nước
+ Sinh tố : khi chế biến, các sinh tố dễ tan trong nước dễ bị mất
- Từ -10 độC đến -20độc: Đây là nhiệt độ vi khuẩn ko thể sinh nở nhưng cũng ko chết
- Từ 0 đến 37độC: Đây là nhiệt độ nguy hiểm, vi khuẩn có thể sinh nở may chóng
- Từ 50 đến 70độC: Đây là nhiệt độ vi khuẩn ko thể sinh nở nhưng cũng ko chết hoàn toàn
- Từ 100 đến 115độC: Đây là nhiệt độ an toàn trong nấu nướng, vi khuẩn bị tiêu diệt hoàn toàn
Chúc bn học tốt!
1.Thức ăn cung cấp năng lượng cho cơ thể. Người ta thấy rằng sự thiếu hoặc thừa các chất dinh dưỡng so với nhu cầu đều dẫn đến ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe và có thể dẫn đến bệnh tật. Chúng ta còn biết rằng trong thức ăn không chỉ có các chất dinh dưỡng mà còn có các chất tạo màu sắc, hương vị cũng như có thể có các chất độc hại đối với cơ thể. Do đó để có bữa ăn hợp lý, an toàn và ngon cần có kiến thức về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, kỹ thuật chế biến, nấu nướng.
2. Vì trong quá trình sơ chế thực phẩm, nếu ko sử lí đúng cách sẽ làm ảnh hưởng đến hương vị của món ăn và làm mất chất dinh dưỡng. Đặc biệt là các vitamin hòa tan trong nước sẽ dễ bị mất trong quá trình rửa và chế biến.
3.Khi nấu món ăn, tác dụng của nhiệt và cách nấu nướng sẽ có ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của thức ăn:
-Đun nấu lâu sẽ bị mất nhìu vitamin tan trong thức a9n, nhất là các vitamin hòa tan trong nước như các vitamin nhóm B, vitamin nhóm C và PP.
-Rán lâu sẽ mất nhìu chất hòa tan trong chất béo:A,D,E,K.
-Nấu ở nhiệt độ quá cao làm 1 số chất dinh dưỡng bị phá hủy hoặc biến đổi.
tick mik nha thương lém thương lém.....
cần chế biến nóng thích hợp để đảm bảo các chất dinh dưỡng không bị biến dạng, hao hụt và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm giúp cơ thể hấp thu, sử dụng tốt các thành phần dinh dưỡng và ngăn ngừa việc sản sinh ra các chất độc hại.
- nhiệt độ 100°C -115°C vi khuẩn bị tiêu diệt.
- nhiệt độ 50-80°C vi khuẩn không thể sinh nở nhưng cũng không chết hoàn toàn.
- nhiệt độ 0-37°C vi khuẩn sinh nở mau chóng.
- nhiệt độ -10°C - 20°C vi khuẩn không thể sinh nở nhưng cũng không chết.
- nhiệt độ 100°C -115°C vi khuẩn bị tiêu diệt.
- nhiệt độ 50-80°C vi khuẩn không thể sinh nở nhưng cũng không chết hoàn toàn.
- nhiệt độ 0-37°C vi khuẩn sinh nở mau chóng.
- nhiệt độ -10°C - 20°C vi khuẩn không thể sinh nở nhưng cũng không chết.
chất dinh dưỡng:
chất đạm:khi đun nóng ở nhiệt độ quá cao(vượt quá nhiệt độ làm chín), giá trị dinh dưỡng sẽ bị giảm đi
chất béo:đun nóng nhiều(vượt quá nhiệt độ nóng chảy và nấu sôi)sinh tố A có trong chất béo sexbij phân hủy và chất béo sẽ bị biến chất
chất đường bột:đun khô \(180^0\) đường biến mất,nhiệt độ cao=>tinh bột cháy đen,chất dinh dưỡng bị tiêu hủy
chất khoáng:khi đun,1 phần sẽ hòa tan trong nc
sinh tố:khi chế biến,các sinh tố dễ tan trong nc dễ tan trong nc
Chất đạm (Protein)
Đối với cơ thể, chất đạm có vai trò rất quan trọng:
- Đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của trẻ em.
- Cần thiết cho việc xây dựng, duy trì và tái tạo tế bào của các bộ phận trong cơ thể.
- Là thành phần của các kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.
- Là thành phần của các men, các nội tiết tố (hormon) rất quan trọng trong hoạt động chuyển hóa của cơ thể.
- Khi cần có thể cung cấp năng lượng cho cơ thể
Nguồn thực phẩm giàu chất đạm là các loại thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa, đậu đỗ.
Chất bột đường (Gluxit)
Chất bột đường bao gồm các loại đường, tinh bột, chất xơ…
- Gluxit là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể do bữa ăn của chúng ta ăn nhiều chất bột (gạo). Trong khẩu phần ăn hàng ngày năng lượng do chất đường bột cung cấp chiếm tới 55-60%.
- Chất xơ không phải là nguồn cung cấp năng lượng cho khẩu phần nhưng nó cũng rất quan trọng, giúp cho hệ tiêu hóa làm việc hợp lý khỏe mạnh, giúp đào thải các chất độc ra khỏi cơ thể.
Những thực phẩm giàu chất bột đường gồm: gạo, mì, ngô, kê, các loại khoai củ, và các sản phẩm chế biến như bánh phở, bún, miến…
Chất béo (Lipit)
- Là nguồn cung cấp năng lượng tốt cho cơ thể.
- Là dung môi hòa tan các vitamin tan trong dầu mỡ (Vitamin A, D, E, K) giúp cơ thể hấp thu và sử dụng tốt các vitamin này.
- Là thành phần cần thiết của màng tế bào, đặc biệt là tế bào não.
- Góp phần làm cho món ăn ngon, hấp dẫn hơn.
Các thực phẩm giàu chất béo gồm: Dầu, mỡ, lạc, vừng, đậu tương, bơ…
Vitamin & muối khoánG
Vitamin và muối khoáng được gọi là vi chất dinh dưỡng. Nhu cầu hàng ngày của cơ thể về những chất này nhỏ hơn rất nhiều so với Protein, Lipit, Gluxit, vai trò của chúng rất quan trọng. Nếu thiếu vitamin và chất khoáng sẽ gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động bình thường, sự phát triển của cơ thể và dẫn đến bệnh tật và thậm chí tử vong.
- Nhóm các vitamin tan trong nước: Vitamin B1, B2, PP, B6, B12 cần thiết cho sự chuyển hóa Protein, Lipit, Gluxit trong cơ thể, giúp cơ thể phát triển bình thường, ăn ngon miệng.
- Nhóm các vitamin tan trong dầu: vitamin A, vitamin D, vitamin E, vitamin K.
Đặc biệt chú ý đến vitamin A vì nó có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể, như:
- Đảm bảo sự phát triển bình thường của cơ thể.
- Tăng cường sức đề kháng giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.
- Bảo vệ mắt chống quáng gà và bệnh khô mắt.
- Bảo vệ hệ thống niêm mạc trong cơ thể.
Các thực phẩm nguồn gốc động vật (thịt, trứng, gan) có nhiều vitamin A. Các loại quả chín có màu vàng, đỏ, da cam và rau xanh thẫm chứa nhiều caroten (là chất tiền vitamin A, khi vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A).
Nhóm các chất khoáng:
- Canxi và phốt pho - rất quan trọng để duy trì cho cơ thể có một bộ xương và răng khỏe mạnh. Sữa và các sản phẩm từ sữa, tôm, cua, cá là nguồn canxi tốt.
- Sắt (Fe): Cùng với protein tạo thành huyết cầu tố (Hemoglobin) là thành phần chính của hồng cầu.
- Tham gia vào thành phần chính của các men quan trọng trong hoạt động chuyển hóa của cơ thể.
Nguồn sắt tốt có từ: thịt, tim, gan, đậu đỗ, rau xanh. Vitamin C giúp tăng hấp thu sắt.
+Chất đạm ở nhiệt độ cao giá trị dinh dưỡng bị giảm
+ Chất béo đun nóng nhiều sẽ mất vitamin A và chất béo bị biến chất.
+Chất đường bột ở nhiệt độ cao sẽ bị phân hủy.
+ Chất khoáng, sinh tố sẽ dễ bị hoà tan vào môi trường nước hoặc bị phân huỷ ở nhiệt độ cao.
Dinh dưỡng và sức khỏe >>Dinh dưỡng hợp lý
Ảnh hưởng của chế biến nóng tơí các thành phần dinh dưỡng của thức ăn .
Phần lớn các thực phẩm mua về thường phải qua quá trình chế biến, nấu nướng nhất định có thể ăn được. Trong quá trình chế biến nóng các chất dinh dưỡng chịu những biến đổi lý hóa một cách đa dạng.
Với chất đạm (protit): Khi đun nóng ở nhiệt độ 700C thì protit đóng vón lại rồi bị thoái hóa. Khi có axit quá trình này xảy ra ở nhiệt độ thấp hơn. Quá trình đông vón vừa phải làm cho protit dễ tiêu. Khi nấu nướng ở nhiệt độ cao quá lâu, giá trị dinh dưỡng của protit giảm đi vì tạo thành các liên kết khó tiêu. Quá trình này hay xảy ra khi nướng, hấp thức ăn trong lò nhiệt độ cao, rán thực phẩm trong dầu mỡ quá lâu (khi thực phẩm rán trong dầu mỡ nhiệt độ có thể lên đến trên 2000C, khi nướng thực phẩm trên bếp than nhiệt độ có thể lên đến 3000C. Do vậy với các thực phẩm cung cấp chất đạm như thịt, cá, trứng đều phải sử dụng nhiệt độ trên 700C và nên là 1000C để nấu chín và diệt khuẩn (bao gồm cả vi khuẩn và vi rút). Khi luộc gà (ngan, vịt), cá, chân giò, gan…cần luộc chín kỹ, đặc biệt chú ý phần thịt sát với xương không để còn màu hồng. Hạn chế sử dụng các thức ăn nướng, quay, rán trong lò nhiệt độ cao hoặc trong dầu mỡ lâu.
Với chất béo (Lipit): ở nhiệt độ không quá 1020C, lipit (dầu, mỡ) không có biến đổi đáng kể ngoài hóa lỏng.
Khi đun lâu ở nhiệt độ cao các axit béo không no sẽ bị oxy hóa làm mất tác dụng có ích, đồng thời các liên kết kép trong cấu trúc của các axit này bị bẻ gãy tạo thành các sản phẩm trung gian như là peroxit aldehyt có hại đối với cơ thể. Khi nướng thức ăn trên bếp lửa mỡ chảy ra rơi xuống tạo mùi thơm nhưng thực chất đó là carbuahydro thơm vòng không tốt cho cơ thể và đó chính là một trong các tác nhân gây ung thư. Do vậy không nên tái sử dụng dầu mỡ đã qua rán ở nhiệt độ cao không mua các thức ăn rán, quay bán sẵn (quẩy, bánh rán, gà quay…) khi thấy chảo dầu, mỡ dùng cho việc chế biến không còn trong, đã được sử dụng nhiều lần và có màu đen cháy.
Với chất bột (Gluxit): gồm các loại đường đơn, đường kép, tinh bột, celluloza. Ở nhiệt độ đun sôi các loại đường đơn giản không có biến đổi đáng kể. Quá trình chế biến nóng làm cho tinh bột dễ tiêu hơn, celluloza không bị nứt ra và trở nên mềm hơn, cho phép các dịch tiêu hóa tiếp xúc với các thành phần dinh dưỡng trong tế bào thực vật (thường celluloza tạo một lớp màng bao bọc bên ngoài tế bào của các loại hạt, củ, rau…). Nhưng khi chế biến ở nhiệt độ cao đặc biệt là trong môi trường khô không có nước, các thành phần của tinh bột cũng bị biến đổi khó tiêu hóa hoặc độc hại với cơ thể.
Các loại chất khoáng (Canxi, phosootspho, kali, magiê…) trong quá trình nấu có các biển đổi về số lượng do chúng hòa tan vào nước. Do vậy nên sử dụng thức ăn cả phần cái và phần nước.
Vitamin: các vitamin chịu nhiều thay đổi nhất vì đó là những thành phần tương đối ít bền vững. Các vitamin tan trong chất béo như A, D, E, K tương đối bền vững với nhiệt độ, trong quá trình nấu nướng bình thường vitamin nhóm này bị hao hụt từ 15-20%. Các vitamin tan trong nước bị mất nhiều hơn do bị hòa tan và dễ bị phân giải, nhất là trong môi trường kiềm. Do vậy, ngâm thực phẩm trong nước, luộc nhiều nước rồi đổ đi, sử dụng xút (hoặc vôi) trong nấu nướng, bảo quản thức ăn lâu đều làm mất nhiều các vitamin nhóm B, C (lượng mất mát có thể tới 90%). Trong các vitamin nhóm B thì vitamin B1 ít bền vững nhất, vitamin B2, vitamin PP hầu như không bị phân hủy. Khi luộc thịt, cá một lượng tương đối vitamin nhóm B ra theo nước luộc. Chế biến nóng hợp lý làm mất khoảng 20% vitamin nhóm B, riêng vitamin B1 tỷ lệ mất có thể cao hơn. Vitamin C ít bền vững nhất. Chất này không những dễ hòa tan trong nước mà còn bị oxy hóa nhanh, nhất là ở nhiệt độ cao. Trong thời gian bảo quản lượng vitamin C cũng giảm dần. Do vậy nên chọn các loại rau, quả tươi rửa thực phẩm rồi mới gọt, thái, cắt; khi đã thái, cắt rồi cần nấu ngay. Men oxylaza được giải phóng khi rau quả bị đụng dập cũng tham gia vào quá trình oxy hóa làm rau quả nhanh hỏng và lượng vitamin C mất đi rất nhanh. Khi luộc, nấu rau cần cho rau vào nước đun sôi khi rau đã được rửa sạch (để khử tác dụng của men oxylaza) rút ngắn thời gian đun nấu. Nấu chín xong ăn ngay cũng giúp hạn chế hao hụt vitamin C. Người ta ước tính lượng vitamin mất do nấu nướng như sau: vitamin C: 50%; vitamin B1: 30%; caroten: 20%.
Tóm lại: cần chế biến nóng thích hợp để đảm bảo các chất dinh dưỡng không bị biến dạng, hao hụt và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm giúp cơ thể hấp thu, sử dụng tốt các thành phần dinh dưỡng và ngăn ngừa việc sản sinh ra các chất độc hại.mk lm gion ak nhan,dung thi tick , ma hk thi thoi