K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 7 2021

câu 1 :xuất xứ của đoạn trích : đc  đăng trên tạp chí Nam Phong số 18 tháng 12 năm 1918.

văn bản chứa đoạn trích trên là : văn bản : Sống chết mặc bay , đc viết theo thể loại truyện ngắn

câu 2  Tham khảo

Truyện lấy bối cảnh của nông thôn Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Nó được lấy bối cảnh trong một đêm khuya, một khúc đê bên sông Nhị Hà (tức sông Hồng) đang bị mưa gió làm vỡ, nhưng trong đình quan phụ mẫu vẫn ngồi chơi tổ tôm với các tên quan lại khác, không quan tâm đến đê điều. Câu chuyện dựa trên hiện trạng xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

câu 3

BPTT  của đoạn trích trên là : so sánh và liệt kê

tác dụng : nói lên  sự có ý thức, chăm làm,đoàn kết trong công việc

câu 4 Tham khảo

Được coi là một bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn là truyện ngắn đặc sắc thể hiện rõ giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phấm thể hiện qua việc phản ánh cuộc chống chọi ác liệt với thiên tai của nhân dân lao động – những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn - trong khoảnh khắc họ phải đối mặt với sự sống mong manh, cực nhọc điêu linh. Trong khi đó bè lũ quan lại tiêu biểu là tên quan phủ lòng lang dạ thú vô tâm, vô trách nhiệm trước sự sống chết của nhân dân mình. Khi nước sông dâng lên thì hàng trăm con người đội đất, vác tre, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió để cô giữ lấy đê; trong khi đó, trong đình “quan phụ mẫu” uy nghi chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài. Khi có người nhà quê chạy vào báo "Đê vỡ mất rồi” quan phụ mẫu quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày” rồi vẫn cứ thản nhiên đánh bài. Nhà văn cảm thông chia sẻ với cuộc sổng thê thảm của người dân trong cảnh hộ đê và cảnh điêu linh của dân sau khi đê vỡ. Bởi vậy, không dừng lại ở việc tố cáo, phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của bè lù quan lại, nhà văn còn bày tỏ lòng thương đối với những người nông dân nghèo hèn đơn thương độc mã trong cuộc chiến dữ dội với thiên tai. Và do đó, bên cạnh giá trị hiện thực, tác phẩm còn toát lên một tinh thần nhân đạo cao cả. Giá trị của tác phẩm đã hứa hẹn một bước phát triển mới của văn học Việt Nam.

đề văn

 

I/ Mở bài

- Trên con đường tiến tới đài vinh quang của nhân loại, chẳng bao giờ có dấu chân của kẻ lười biếng.

- Qua đó Lê-nin đã nhắc nhở chúng ta về thái độ học tập không ngừng bằng một câu nói nổi tiếng: “Học, học nữa, học mãi.

II/ Thân bài

1) Giải thích ngắn (là gì?)

- “Học” là sự kế thừa những kiến thức mà ông cha ta để lại.

- Khi học chúng ta phải tìm hiểu và mở rộng các kiến thức đã thu nhân được từ thế giới xung quanh.

- “Học nữa” là chúng ta phải học từ trình độ này đến trình độ khác.

- Nâng cao trình độ và sự hiểu biết của mình về mọi mặt và ở bất cứ nơi nào

- “Học mãi” có nghĩa là chúng ta phải không ngừng học tập.

 

- Phải luôn luôn tìm tòi và nghiên cứu những kiến thức mà ta đã học được.

- Từ ngàn xưa, lợi ích của việc học tập là đúc kết những tinh túy và áp dụng chúng
vào cuộc sống.

- Chỉ khi có học thức chúng ta mới có thể góp phần đem lại một xã hội văn minh và
tiến bộ.

- Như thế lời dạy của Lê-nin mang hàm ý khuyên răn chúng ta phải học hỏi không
ngừng và học suốt đời.

 

2) Lý giải cơ sở nảy sinh vấn đề (Tại sao?)

*LĐ1:

- Kiến thức mà ta biết chỉ là một giọt nước, còn những điều ta chưa biết là biển cả.

+Chỉ có học tập mới giúp ta thỏa mãn sự hiểu biết và sự tò mò của con người.

+Học là con đường ngắn nhất trong hành trình đến với tri thức.

*LĐ2:

- Học tập là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi con người

+nghĩa vụ: ai cũng phải học tập để có nền tảng kiến thức, góp phần xây dựng bảo vệ Tổ Quốc

+ trách nhiệm: học tập phải là một quá trình nghiêm túc, góp phần xóa nạn mù chữ ở nước ta

+quyền lợi: ai cũng có quyền được học, được trở thành người văn minh, có tri thức

*LĐ3:

- Học tập đem lại lợi ích cho bản thân

+ bảo vệ bản thân

+ tự nuôi sống bản thân

- Và qua đó ta cũng có thể khẳng định giá trị của mình qua những kiến thức mà ta đã áp dụng.

3) Phương hướng vận dụng (Như thế nào?)

- Chúng ta phải cố gắng học tập thật chăm chỉ.

- Với mỗi con người sẽ có nhiều cách học khác nhau, nhưng quan trọng nhất là học phải đi đôi với hành.

- phải luôn học tập không ngừng (qua mỗi giờ trên Trái Đất lại có thêm một phát
minh mới ra đời)

- học ở nhà trường và tham khào thêm nhiều từ sách vở, từ kinh nghiệm của mọi người xung quanh

- Nhân vật điển hình

+ nhà bác học nổi tiếng Đắc-uyn: “Nhà bác học không có nghĩa là ngừng học”.

+Bác Hồ người lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam.

(Bác đã không ngừng học hỏi từ các nước láng giềng và đem những tinh túy ấy áp dụng vào nước ta.)

- Qua đó đã góp phần nâng lên giá trị chân lí của Lê-nin.

4 ) Phê phán:

- Trong trường học: có những học sinh lười biếng không chăm chỉ học hành, kiến thức
dở dang

 

- Trong xã hội: những người tự kiêu mãn nguyện với những gì mình đã làm được, nên
không chịu tiếp tục học hỏi.

III/ Kết bài:

- Câu nói: “Học, học nữa, học mãi” của Lê-nin là câu nói mang ý nghĩa nhân văn lớn cho con người.

- Nó sẽ luôn là một ngọn đèn sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta bước tới đài vinh quang của nhân loại.

 

 

 

22 tháng 7 2021

Câu 2 : Học mãi có nghĩa là học liên tục, học đến suốt đời, họccả khi về già. Câu: “Học, học nữa, học mãi ” khuyên ta phải dốc hết sức mình vào việc học . Môn học nào cũng vậy, ta phải học từ cái cơ bản nhất đến nâng cao. Bác Hồ đã dạy chúng ta rằng:" Người có tài mà không có đức là người vô dụng.

15 tháng 10 2017

Lạy má :v

21 tháng 9 2017

(1)Từ Tôi trỏ con cò-->> Nhờ câu trước đó.
-Tôi 1: Phụ ngữ của động từ(vớt)

-Tôi 2: làm chủ ngữ.

(2) Tôi: trỏ Thành(atrai Thủy)--->> Nhờ nội dung đoạn văn

-tôi 1: Phụ ngữ cho danh từ mẹ(mẹ tôi)

-tôi 2: Phụ ngữ cho danh từ cánh tay

-tôi 3: Là chủ ngữ

(3) Ấy: Trỏ tài năng của quan tướng cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn vai---> Nhờ câu trước đó.

(4) Thế: Trỏ sự việc mẹ yêu cầu 2ae chia đồ--> Nhờ câu trước đó.

(5,6) Ai, sao dùng để hỏi.

Tôi, ấy, sao, thế, ai--> là đại từ.

11 tháng 10 2016

3a,

(1) Quan hệ từ

(2) Quan hệ từ như

(3) Quan hệ từ Bởinên

(4) Quan hệ từ Nhưng

3b,

(1)

(1)   Liên kết Cuộc sống bình dân, hằng ngày với câu trên đất nước nhà.

(2)   Liên kết giữa người với hoa

(3)   Liên kết giữa Tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực với tôi chóng lớn lắm

(4)   Liên kết câu trước Mẹ thường … với câu sau Nhưng

(2)

- Quan hệ sở hữa: (1) [ Mình không chắc lắm ]

- Quan hệ nhân quả: (3)

- Quan hệ so sánh: (2)

- Quan hệ tương phản: (4)

3c,

- Trường hợp bắt buộc phải có QHT: a’, b’, c, d’.

- Trường hợp không bắt buộc có QHT: a, b, c’, d.

3d,

- Nếu – thì.

- Tuy – nhưng.

- Vì – nên.

- Hễ - thì.

- Sở dĩ – vì.

3e.

- Nếu thời tiết đẹp thì chúng tôi sẽ thăm rừng Cúc Phương vào chủ nhật này. (quan hệ điều kiện - kết quả)

- Vì trời mưa nên đường lầy lội. (quan hệ nguyên nhân - kết quả)

- Tuy bị hỏng cả hai mắt nhưng anh ấy vẫn sống rất lạc quan. (quan hệ nhượng bộ)

- Hễ bạn Việt đến thì mẹ gọi con dậy nhé. (quan hệ điều kiện - kết quả)

- Người sở dĩ khác loài cầm thú, vì lòng nhân trời phú cho ta. (Phan Bội Châu) (quan hệ nguyên nhân)

11 tháng 10 2016

Ý nhầm, ở phần 3c, trường hợp bắt buộc phải dùng QHT là: a, b, c, d nhé

Không bắt buộc thì là những trường hợp còn lại .w. 

8 tháng 8 2017

Hai mươi năm ấy thật là thương

Con mới sinh ra đã có trường

“Thanh niên” – Nắng rợp đường con bước

Ngày hội trường xiết đổi bâng khuâng

Các chị, các anh từ bốn phương

Về đây ríu rít giữa rân trường

Thầy cô trẻ lại ngày gặp mặt

Ai cũng quên mình tóc điểm sương ...

Bn tham khảo nhé!

Có thể ko pai là 20 năm nhưng bạn tham khảo nhé


Bao năm tháng, nay ta giật mình tỉnh giấc
Sắp qua rồi những tháng ngày thân thương
Những ngày vui của 1 thuở đến trường
Đang trôi dạt theo từng chòm mây trắng.
Con nhớ lắm những ngày xưa đằm thắm
Cô dạy con từng nét chữ vần thơ
Cô đưa con gõ cánh cửa cuộc đời
Và duyên dáng của một người con gái.
Tâm hồn con,một nỗi buồn dài
Cô ôm ấp , xoa đầu khi con khóc
Vầng trán cô những vần nhăn se sắt
Âu yếm nhìn chúng con
Tuổi nhỏ chúng con nào đâu biết ưu phiền
Vẫn ngỗ nghịch gọi cô là “trại chủ”
Và chúng con là những con cừu bé nhỏ
Cô chăn dắt trên đồng cỏ tri thức bao la.
Khi những ngày cuối của thời học sinh sắp qua
Con mới giật mình nhận ra một điều nho nhỏ
Một tình thương bao la và vô tận
Cô dành cả cho những con cừu nhỏ-chúng con.

6 tháng 11 2017
Bài Phong Kiều dạ bạc của thi sĩ Trương Kế (? - ?) đời Đường là một “bài tuyệt cú truyền tụng xưa nay” (thiên cổ truyền tụng đích tuyệt cú danh thiên). Nguyên văn bài thơ như sau:Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/ Giang phong ngư hỏa đối sầu miên/ Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Dịch thơ: Trăng tà chiếc quạ kêu sương/ Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ/ Thuyền ai đậu bến Cô Tô/ Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. (Tản Đà) Bài thơ hai câu đầu nói về đời và hai câu sau nói về đạo. Đạo ở đây là đạo Phật chỉ có 5 chữ (từ) là “Hàn Sơn tự” và “Chung thanh” (Tiếng chuông chùa). Đây là bài thất ngôn tuyệt cú (4 câu, mỗi câu 7 chữ) tổng cộng chỉ có 28 chữ mà từ đời Tống đã gây ra nhiều lý giải khác nhau. Để hiểu thêm về bài thơ chúng tôi lược thuật vài nét về các lý giải đó. 1. Trước hết là đầu đề “Dạ bạc” (Đêm đậu thuyền). Có nghĩa là bài thơ chỉ nói cảnh vật và cảm nghĩ buồn của con người vào ban đêm rất dài nhưng đến câu cuối tác giả miêu tả sự việc diễn ra chỉ vào lúc “nửa đêm” (dạ bán) khi có tiếng chuông từ chùa Hàn San xa xa vọng đến thuyền của người khách đang nằm (Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền). Có người cho rằng Trương Kế “mâu thuẫn”, “không nhất quán” hay “lẫn” là đầu đề nói việc cả đêm (Dạ) mà kết thúc bài thơ là nửa đêm (dạ bán). Người khác thì cho rằng “Dạ” (đêm) hay “dạ bán” (nửa đêm) đều hợp lý. Có thể lúc đầu thì tác giả nghĩ cả đêm nhưng khi nghe tiếng chuông từ chùa Hàn San vọng đến thì sự việc có thể kết thúc, nó là đỉnh điểm không cần kéo dài thì người đọc cũng hiểu được đó là câu chuyện của cả đêm. Tứ thơ sâu sắc là ở đấy. Câu thơ đầu “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên” chỉ có 7 chữ nhưng cũng có những ý kiến khác nhau. “Ô đề” lâu nay ai cũng hiểu là “quạ kêu” nhưng các nhà sư Nhật Bản sau khi đến tham quan vãng cảnh chùa Hàn San và tìm hiểu bài Phong Kiều dạ bạc thì cho rằng “Ô đề” không phải là “quạ kêu” mà chỉ địa danh có tên là “Ô Đề” ở gần Phong Kiều thuộc Tô Châu, tỉnh Giang Tô. Các nhà sư Nhật Bản cho rằng 2 chữ “Sầu miên” không phải là “giấc ngủ buồn” mà là núi “Sầu Miên” cũng là địa danh gần đó. Ý kiến của các nhà sư Nhật Bản không sai vì ở Cô Tô thời xưa có thôn Ô Đề và núi Sầu Miên nhưng hai địa danh này đều có sau khi xuất hiện bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Dân địa phương đời Đường vì cảm nhận cái hay ngôn từ trong bài thơ của Trương Kế mà lấy đặt thành địa danh của quê hương mình. 2. Bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế là một bức tranh mà tác giả nghe và nhìn thấy khi ban đêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều. Nhưng bắt đầu từ thời Bắc Tống có người đã hoài nghi về tính chân thực của thi phẩm này. Đầu tiên trong bài Lục nhất thi thoại, một trong “bát đại gia Đường - Tống” là Âu Dương Tu nói: “Nhà thơ tham tìm câu thơ hay mà lý thì không thông nên lời mắc bệnh”. Ví như: Nhà thơ nói rằng: “Dưới đài thành Cô Tô có chùa Hàn San, giữa đêm tiếng chuông vẳng đến thuyền khách”. Có người cho rằng câu thơ thì hay nhưng kỳ thực thì lúc canh ba làm gì có đánh chuông? Theo lời của Âu Dương Tu thì biết rằng ông là người rất coi trọng tả thực trong thơ nên ông gọi là “sự tín” (tin ở sự việc). “Sự tín” yêu cầu tác phẩm miêu tả chân thực đời sống, từ đó Âu Dương Tu cho rằng câu thơ “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” của Trương Kế rất hay, gây xúc cảm nhưng không chân thực với cuộc sống, nghĩa là không phù hợp với “sự lý” (cái lý của sự việc). Ý kiến chỉ trích “nặng nề” của Âu Dương Tu các văn nhân đời Tống (960-1127) đều không tán thành và có ý kiến phản bác lại. Đó là ý kiến của Vương Trực Phương trong Vương Trực Phương thi thoại, Diệp Hữu Công trong Đường thi ký sự, Trần Nham Tiên trong Canh Khê thi thoạivà Lục Du trong Lão học yêm bút ký… Nhìn chung các văn nhân đời Tống đều không tán đồng với ý kiến quá khắt khe của Âu Dương Tu về “sự tín” và “sự lý”... Thời Minh - Thanh (1368-1911) cũng có một số văn nhân học giả đưa ra những ý kiến khác nhau về câu “Dạ bán chung thanh” trong bàiPhong Kiều dạ bạc của Trương Kế nhưng không lưu lại ở sách vở nào. Họ thống nhất chỉ ra rằng nội dung phản ảnh của một thi phẩm không nhất thiết phải phù hợp với sự chân thực của đời sống. Tư Sư Tăng trong mục “Luận thi” sách Văn thể minh biện tự thất cho rằng câu thơ “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” của Trương Kế không có gì là không chân thực như trường hợp câu “Trăng sáng chiếu Ba Xuyên” (Minh nguyệt chiếu ở Ba Xuyên). Vì thực tế không có cảnh trăng sáng ở Ba Xuyên. Hồ Ứng Lân trong sách Thi tẩu cũng khẳng định câu thơ “Dạ bán chung thanh” của Trương Kế là một thủ pháp nghệ thuật phục vụ cho quan niệm “ngôn tình” (tình cảm thông qua ngôn ngữ) thể hiện trong thi phẩm chứ không nhất nhất phải gò bó vào sự phản ảnh chân thực đời sống. Nó nói lên mối quan hệ giữa tình cảm (hứng) và sự miêu tả vật tượng, hình tượng khách quan (tượng) là sự kết hợp hài hòa. Hai học giả đời Thanh là Mã Vị trong Thi song tùy bút và Hà Văn Hoán trong Lịch đại thi thoại khảo sách cũng có những ý kiến tương đồng như Hồ Ứng Lân. 3. Văn học cổ điển Trung Quốc rất coi trọng tính chân thực của văn học. Các trước tác như Chu Dịch, Luận ngữ, Luận hoànhVăn tâm điêu long đều nói đến tính “chân thực” trong nghệ thuật. Nhưng tính “chân thực” của nghệ thuật và “sự thực” của đời sống không hoàn toàn như nhau. Vì vậy câu thơ “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” trong bàiPhong Kiều dạ bạc của Trương Kế vẫn “chân thực” và nó được lưu truyền muôn đời. Bao đời nay bất cứ ai dù là người trong đạo hay ngoài đời, dù ở đâu nơi nào trong đêm khuya thanh vắng, tĩnh mịch lại nghe được một tiếng chuông chùa văng vẳng trên bến sông và vọng đến con thuyền của kẻ lữ thứ mới thấy hết sự tuyệt vời của hình tượng và ngôn ngữ thi ca. Và lần đầu tiên tiếng chuông chùa đã đi vào thi ca và trở nên bất hủ. Câu thơ “Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” được coi là một trong những câu thơ hay nhất trong thơ Đường. Bác Hồ rất thích câu thơ “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” của Trương Kế và “họa” lại rằng “Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền” (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền - Nguyên tiêu). Trong bài thơ Đêm nghe tiếng quạ kêu thi sĩ Quách Tấn có hai câu thơ rất hay liên quan đến bài Phong Kiều dạ bạc: “Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng, sông thu Xích Bích nguyệt mơ màng”. Bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế có giảng dạy trong nhà trường Việt Nam các cấp. Cả người dạy người học đều tán thưởng bài thơ này. tick nhé
6 tháng 11 2017

Soạn bài: Ôn tập phần tiếng việt

Luyện tập

Câu 1 (trang 183 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

- Nội dung : hai cặp câu thơ có nội dung trữ tình giống nhau, cùng nói về niềm ưu tư và nỗi lo cho dân, cho nước.

- Hình thức : Giống nhau về thể thơ lục bát. Khác về hình ảnh, cách thức biểu hiện: câu thứ nhất tả và kể, câu thứ hai dùng lối ẩn dụ.

Câu 2 (trang 184 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Phương diện so sánh Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
Tình huống thể hiện Khi ở xa quê Lúc mới trở về quê
Cách thể hiện tình cảm biểu cảm trực tiếp, tinh tế nhẹ nhàng biểu cảm gián tiếp, ngậm ngùi

Câu 3* (trang 184 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Vấn đề so sánh Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều Rằm tháng giêng
Cảnh vật Giống cùng kể, tả về đêm, về trăng, tuyền, sông
Khác cảnh thanh tĩnh, u tối cảnh sống động, trong sáng
Tình cảm lữ khách không ngủ vì buồn xa xứ chiến sĩ vừa hoàn thành nhiệm vụ cách mạng

Câu 4 (trang 184 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Những câu đúng : b, c, e.

29 tháng 3 2017

-Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền.

-Ca dao là những câu thơ có thể hát thành những làn điệu dân ca, ru con... hoặcca dao là lời dân ca đã lược bỏ đi những luyến láy khi hát. Ca dao để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học

29 tháng 3 2017

-. Ca Dao là những bài ca ngắn có vần, điệu để nói lên quan niệm về Vũ trụ, Thiên nhiên, Cuộc sống, Con người, và Xã hội
-. Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian". Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.

18 tháng 1 2018

que huong dc ko ban

I/Mở Bài:
– Giới thiệu vấn đề: Thất bại là mẹ thành công
Trong cuộc sống mấy ai ko từng gặp thất bại. Có những người không thể tự đứng lên sau mỗi lần vấp ngã của chính bản thân mình. Để khuyên nhủ, động viên, nhắc nhở, tục ngữ có câu:”Thất bại là mẹ thành công”
II/Thân Bài:
1. Giải thích:
– Giải thích nghĩa đen của luận điểm:”Ngừơi mẹ”
– Giải thích nghĩa bóng của luận điểm:
* Trong cuộc đời ai ko từng vấp ngã, cho VD từ chính bản thân mình
* Thái độ của mỗi người khi vấp ngã: Có người bỏ cuộc như con chim sâu khi trúng tên thì sợ cây cung… Có người sau thất bại, người ta sẽ rút ra đựơc những kinh nghiệm quí báu để ko còn thất bại nữa. Cho VD.
2. Những tấm gương vượt qua thất bại của bản thân để thành công:
– Mạc Đĩnh Chi với ngọn đèn đom đóm
– Thần Siêu: Tấm gương luyện chữ của Nguyễn Văn Siêu
– Niutơn, Lui Paxtơ…
III/Kết Bài:
– Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề
– Bài học cho bản thân: Vậy xin chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn không thể tự đứng dậy sau mỗi vấp ngã của chính mình…

9 tháng 4 2017


Dàn bài:
1/ Mở bài:
- Nêu sự thàh công ko fải dễ dàg và thg fải trải wa nhìu lần thất bại.
- Trích dẫn câu tục ngữ.
2/ Thân bài:
a/ Giải thích nghĩa của câu tục ngữ:
- Thất bại là j?
- Thất bại là ko đạt đc kết quả, mục đích như mìh mog mún, như mọi dự địh.
- Thàh côg là j?
- Thàh côg là sự trái ngc với thất bại, nghĩa là nhữg thành quả mà mình đạt đc.
- Câu tục ngữ mún khẳg địh có thất bại mới có thàh côg và ko có sự thàh côg nào mà ko fải trải qua nhữg khó khăn, thất bại nhất địh.
b/ Giải thích cơ sở chân lí của câu tục ngữ:
- Thất bại là cơ sở, là người mẹ để sản sih ra thàh côg bởi lẽ ko fải bất cứ côg việc j khi bắt tay vào làm cũg thu hái đc thàh côg ngay mà fải trải qua nhữg lần thất bại nhất địh. Mỗi lần gặp thất bại là 1 lần để chúg ta tìm hiểu nguyên nhân. Tìm ra đc hg khắc fục hữu hiệu hơn cho việc thực hiện nhữg lần sau.
- Để đạt đc nhữg kết quả thì fải trải qua nhữg lần vấp váp, thất bại đầu tiên để đạt đc nhữg kết quả bởi thế người xưa nói "Vạn sự khởi đầu nan".
- Càg trải qua nhìu lần thất bại thì con người càg có thêm kih nghiệm thf càg nhah chóg đi đến thàh côg. Nhà thơ Tố Hữu cũg đã từg nói "Ai chiến thắg mà ko hề thất bại. Ai nên khôn mà chẳg dại đôi lần"
c/ Dẫn chứg thực tế về những người nổi tiếg hay trên thế jới: (Bài đừng sợ vấp ngã/ 44, SGK ngữ văn lớp 7)
d/ Giải thích cơ sở vận dụg:
- Trc nhữg lần thất bại ta ko đc nản lòg, ko đc bi quan, chán nản mà fải có ý chí, nghị lực để vượt lên mọi khó khăn, quyết tâm đạt đến thàh côg.
- Trc nhữg thất bại, ta fải lạc quan, fải xem đó là bài học quý báu để lần sau làm việc có kih nghiệm, có sự thận trọg hơn trog việc làm của mìh.
- Mỗi người cần fải có sự chuẩn bị tốt, chu đáo hơn, cần fải nhìn thẳg vào sai trái của mìh một cách nghiêm túc, thẳg thắn, ko bảo thủ, ko che đậy, lấp liếm. Có ý thức tìm ra nguyên nhân để có hg fát triển tốt hơn.
- Đối với hs, hiểu đc ý nghĩa GD của câu tục ngữ để rèn luyện đức tíh kiên trì, 1 sự quyết tâm khắc fục mọi khó khăn, vươn lên để đạt nhữg kết quả tốt đẹp trên con đg học vấn, ko nản lòg, mhụt chí trc mọi thất bại.
3/ Kết bài:
- Khẳg địh já trị kih nghiệm của câu tục ngữ đối với đời sốg thực tiễn, khẳg địh já trị bền vữg của câu tục ngữ đối với mọi người.
* Thái độ của mỗi người khi vấp ngã: Có người bỏ cuộc như con chim sâu khi trúng tên thì sợ cây cung... Có người sau thất bại, người ta sẽ rút ra đựơc những kinh nghiệm quí báu để ko còn thất bại nữa. Cho VD.
2. Những tấm gương vượt qua thất bại của bản thân để thành công:
- Mạc Đĩnh Chi với ngọn đèn đom đóm
- Thần Siêu: Tấm gương luyện chữ của Nguyễn Văn Siêu
- Niutơn, Lui Paxtơ...
III/KB:
- Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề
- Bài học cho bản thân: Vậy xin chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn không thể tự đứng dậy sau mỗi vấp ngã của chính mình...

21 tháng 11 2017

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc,đồng thời NGười cũng là một thi nhân nổi tiếng.Một trong những bài thơ rất hay của Bác là "Rằm tháng giêng" được Bác sáng tác vào năm 1948-thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân PHáp.Đọc bài thơ,em vô cùng ấn tượng vẻ đẹp đêm trăng rằm tháng giêng và trào dâng cảm xúc yêu quý,khâm phục Bác.

văn mk ko hay,mong bạn thông cảmkhocroi

21 tháng 11 2017

ko bn z là hay lém rùi tại vì mk gấp nên nó z là dc ròi bn

cảm ơn bn nhìu nha