Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Bác gà trống đứng trên mái nhà, vươn cao chiếc cổ dài và kiêu hãnh như một vị vua. Bộ lông đỏ rực của bác lấp lánh dưới ánh nắng, khiến bác trở nên nổi bật giữa bầu trời xanh. Mỗi sáng, bác cất tiếng gáy vang, gọi mặt trời dậy, như một nhạc trưởng chỉ huy bản giao hưởng của buổi bình minh. Bác đi lại trên sân, bước chân mạnh mẽ và tự tin, như thể đang kiểm tra lãnh thổ của mình. Với ánh mắt tinh anh, bác gà trống luôn sẵn sàng bảo vệ đàn gà, thể hiện tình yêu thương và trách nhiệm của một người cha.
Tham khảo

Đây là một đoạn văn 7-10 câu nêu tình cảm, cảm xúc đối với nhân vật Bà cụ trong câu truyện "Nàng tiên Ốc":
Bà cụ trong câu truyện "Nàng tiên Ốc" là một nhân vật đáng kính và đầy tình thương. Mặc dù tuổi cao sức yếu, bà vẫn luôn tràn đầy năng lượng và nhiệt huyết, sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh. Bà là hiện thân của lòng nhân ái, sự hy sinh và sự quan tâm chăm sóc vô điều kiện.
Khi gặp gỡ nàng tiên Ốc, bà đã nhanh chóng nhận ra sự đặc biệt của cô và không ngần ngại mời cô về nhà, chăm sóc và bảo vệ cô như một người thân. Tình cảm chân thành và sự tin tưởng mà bà dành cho nàng tiên Ốc khiến người đọc không khỏi cảm động.
Bà cụ là biểu tượng của sự ấm áp, tình thương và sự bao dung. Mặc dù cuộc sống của bà không được sung túc, nhưng bà vẫn luôn tìm cách giúp đỡ người khác, chia sẻ những gì mình có. Điều này cho thấy bà là một người có trái tim rộng mở và luôn sẵn sàng làm điều tốt đẹp.
Qua hình ảnh của bà cụ, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn mà còn thấy được sự cao quý và đáng kính của người phụ nữ lớn tuổi. Bà là một tấm gương sáng cho những phẩm chất cao đẹp mà mỗi chúng ta nên học tập và noi theo.
Tham khảo
Chúc bạn may mắn!

Đúng 7 giờ 20 phút ngày 16 tháng 5 năm 1967 tại Sài Gòn, một người phụ nữ Việt Nam đã tự tưới 10 lít xăng lên người rồi châm lửa đốt, tự hiến mình thành ngọn đuốc để phản đối chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
Tại miền Nam, vào những năm 1965 – 1968, mức độ phát triển và tăng cường chiến tranh ngày càng ác liệt, tàn khốc. Những đại diện các tôn giáo lớn, những nhà hoạt động xã hội, những trí thức, văn nghệ sĩ có uy tín và có lương tri thấy cần phải tập hợp nhau lại, gióng lên những hồi chuông báo động, hồng ngăn chặn phần nào bàn tay đẫm máu của quân xâm lược Mĩ: Liên minh các lực lượng dân tộc – dân chủ và hòa bình, Hội Văn nghệ sĩ yêu nước – yêu hòa bình, Phong trào Dân tộc Tự quyết lần lượt ra đời.
Như loài dơi sợ ánh sáng, ngụy quyền lập tức đàn áp, khủng bố các tổ chức hòa bình, những người có tâm huyết với vận mệnh dân tộc.
Là một sinh viên Văn khoa, một phật tử hiền lành, khiêm tốn, nhưng tích cực, Nhất Chi Mai nói:
Tôi muốn làm ánh đuốc le lói trong đêm đen để tố cáo những thế lực đen tối, những tội ác chiến tranh. Không còn sự lựa chọn nào khác, cách duy nhất mà chị biết, mà sức chị cho phép để có thể "ra lời", và cách ra lời chân thật nhất, có sức thuyết phục nhất – theo chị – chính là tự bản thân mình phải thắp lên ngọn đuốc ấy.
Bị vây trong một tình thế:
Sống mình không thể nói
Chị tin tưởng:
Chết mới được ra lời
Chị đã dũng cảm:
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết
Tại chùa Từ Nghiêm, đường Bà Hạt, quận 10, Sài Gòn, sau khi để lại mười bức thư cho cha mẹ, thầy cô, bạn bè, chị đã châm lửa tự thiêu để cảnh tỉnh những thế lực đen tối, vô minh, đồng thời lên án cuộc chiến tranh do đế quốc Mĩ gây nên cho đất nước Việt Nam.
Sau cái chết đầy xúc động của chị Nhất Chi Mai, báo chí trong và ngoài nước đều loan tin với tất cả sự tiếc thương và kính trọng. Nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo đã bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với chị bằng nhiều tác phẩm phổ biến rộng rãi ở khắp nơi.
Hôm nay, đọc lại từng lời thơ mộc mạc, chân thành của chị, nhớ đến phương cách "ra lời" bi tráng của chị trong bối cảnh lịch sử khốc liệt những năm 60 ấy, chúng ta nghĩ sự hi sinh của chị đã như một ngọn đuốc góp phần đẩy lùi đêm đen. Và lời thơ nhỏ nhẹ, hiền lành, khiêm nhường của chị sẽ còn vang vọng mãi trên từng hàng cây, ngọn cỏ, trên từng khoảng trời thanh bình xanh vút Việt Nam.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 4Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, sinh năm 1928, người dân tộc Nùng, quê hương anh ở tỉnh Cao Bằng. Nhà Kim Đồng rất nghèo. Cha bị chết vì nạn phu phen lao dịch của thực dân Pháp. Anh trai đi công tác luôn. ở nhà chỉ có mẹ tàn tật và người em họ mồ côi là Cao Sơn.
Từ bé, Kim Đồng đã có tinh thần yêu nước, căm ghét giặc Pháp. Vùng quê hương Kim Đồng là nơi có phong trào cách mạng rất sớm. Ngày 15 tháng 5 năm 1941, Đội Nhi đồng cứu quốc được thành lập có 5 đội viên và Kim Đồng được bầu là đội trưởng đầu tiên của Đội. Trong công tác, Kim Đồng luôn tỏ ra dũng cảm và có nhiều mưu trí.
Một lần, sau khi làm nhiệm vụ dẫn cán bộ vào căn cứ, Kim Đồng đang trên đường trở về nhà thì nghe có tiếng động lạ ở trong rừng. Kim Đồng liền rủ người bạn là Cao Sơn tìm cách báo động cho các anh cán bộ đang ở trong xóm biết. Sau khi quan sát, Kim Đồng đã nhìn thấy bọn lính đang lợi dụng sương mù phục kích trên đường vào xóm và im lặng đợi bắt người. Kim Đồng bảo Cao Sơn lùi về phía sau, chạy về báo cáo. Đợi cho bạn đi rồi, Kim Đồng ngắm kĩ địa hình, để chạy vọt qua suối, lên phía rừng. Như vậy, bọn lính sẽ phải nổ súng hoặc kêu lên, chúng nó sẽ bị lộ. Quả nhiên, thấy có bóng người chạy, bọn giặc lên đạn và hô: “Đứng lại!”. Kim Đồng không dừng chân. Giặc bắn theo, anh Kim Đồng đã anh dũng hi sinh. Hôm ấy là sáng sớm ngày 15 tháng 02 năm 1943.

Bàn Tay Vàng
Ngày xưa, trong một ngôi làng nhỏ nằm giữa những cánh đồng xanh tươi, có một cậu bé tên là Minh. Minh là một cậu bé hiền lành, chăm chỉ và luôn giúp đỡ mọi người xung quanh. Nhưng điều đặc biệt nhất ở Minh là đôi bàn tay của cậu. Mọi người trong làng thường gọi cậu là "cậu bé bàn tay vàng" vì bất cứ thứ gì Minh chạm vào đều trở nên tốt đẹp hơn.
Một hôm, khi đang đi dạo trong rừng, Minh phát hiện ra một cây cổ thụ lớn. Cây đã già cỗi, lá rụng đầy đất, và có vẻ như nó sắp chết. Minh cảm thấy xót xa và quyết định chạm vào thân cây. Ngay lập tức, một điều kỳ diệu xảy ra! Bàn tay vàng của Minh phát ra ánh sáng rực rỡ, và cây cổ thụ bỗng hồi sinh, đâm chồi nảy lộc, lá xanh tươi trở lại.
Tin tức về bàn tay vàng của Minh nhanh chóng lan rộng khắp làng. Người dân đổ xô đến tìm cậu, cầu xin cậu giúp đỡ họ với những vấn đề của mình. Có người cần chữa lành bệnh tật, có người muốn khôi phục mùa màng, và có người chỉ muốn có được một chút hạnh phúc trong cuộc sống. Minh không từ chối ai cả. Cậu dùng bàn tay vàng của mình để giúp đỡ mọi người, và mỗi lần như vậy, cậu lại cảm thấy niềm vui trong lòng.
Nhưng rồi, một ngày nọ, một người lạ mặt xuất hiện trong làng. Ông ta tự xưng là một thương nhân giàu có và hứa hẹn sẽ mang đến cho Minh những món quà quý giá nếu cậu đồng ý sử dụng bàn tay vàng của mình để làm giàu cho ông. Minh đã bị cám dỗ bởi những lời hứa hẹn về sự giàu có và danh vọng. Cậu quyết định giúp người thương nhân, nhưng điều đó đã khiến cậu dần xa rời những giá trị tốt đẹp mà cậu đã từng sống.
Khi Minh bắt đầu chạm vào những thứ chỉ vì lợi ích cá nhân, bàn tay vàng của cậu bỗng nhiên trở nên vô dụng. Không còn ánh sáng rực rỡ, không còn phép màu. Người dân trong làng dần dần quay lưng lại với cậu. Minh nhận ra rằng mình đã đánh mất bản thân, đánh mất những gì làm nên giá trị của cậu.
Sau một thời gian dài cô đơn, Minh quyết định quay trở lại với cuộc sống bình dị. Cậu bắt đầu giúp đỡ mọi người một cách chân thành, không mong đợi điều gì đáp lại. Dần dần, bàn tay vàng của cậu lại trở nên kỳ diệu. Cậu không chỉ giúp đỡ người khác mà còn tìm thấy niềm vui trong việc cho đi.
Cuối cùng, Minh hiểu rằng sức mạnh thực sự không nằm ở bàn tay vàng, mà nằm ở trái tim nhân ái và lòng tốt. Từ đó, cậu sống một cuộc đời hạnh phúc, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không cần đến những món quà vật chất hay sự công nhận.
Kết luận
Câu chuyện về Minh và bàn tay vàng nhắc nhở chúng ta rằng giá trị thực sự của con người không nằm ở sự giàu có hay danh vọng, mà ở lòng tốt và sự sẻ chia. Hãy sống với trái tim rộng mở, và bạn sẽ luôn tìm thấy hạnh phúc.
Tham khảo
Giá trị hòa bình của cuộc sống là một chủ đề vô cùng quan trọng và sâu sắc, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay. Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh, mà còn là trạng thái hài hòa, yên ổn trong tâm hồn mỗi người và trong mối quan hệ giữa người với người. Khi có hòa bình, con người được sống trong an toàn, không lo sợ về bạo lực hay xung đột, từ đó có thể tập trung vào việc xây dựng cuộc sống, phát triển bản thân và đóng góp cho xã hội.
Hòa bình tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Khi không có chiến tranh, các quốc gia có thể tập trung nguồn lực vào giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Hòa bình cũng thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc, góp phần xây dựng một thế giới đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, hòa bình không phải là điều tự nhiên mà có, mà là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Chúng ta cần phải xây dựng hòa bình từ những điều nhỏ nhất, từ việc tôn trọng ý kiến của người khác, giải quyết xung đột bằng đối thoại, đến việc bảo vệ môi trường và đấu tranh cho công bằng xã hội. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể tạo ra một thế giới hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Hòa bình thực sự là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của nhân loại.