K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 3 2022

*Vai trò của nhân dân : 

 -Ngăn cản sự xâm lược và và làm chậm quá trình bình đình của Pháp trên đất Việt Nam, bởi từ trc khi xâm lược Pháp xác định là xâm lược nhanh những mãi 20 năm sau thực dân Pháp mới cơ bản bình định xong việt nam và tiến hành khai thác;

- góp phần để triều đình nhà nguyễn, đặc biệt là các nhà cải cách bắt đầu có ý thức về công cuộc đổi mới, duy tân đất nước; những tư tưởng tiến bộ được xâm nhập vào việt nam;

- Kích thích hoạt động của các nhà hoạt động cách mạng

- Là kinh nghiệm quý báu cho các phong trào đâu tranh sau này;

- thể hiện tinh thần yêu nước của đồng bào ta

*Trách nhiệm của triều đình nhà Nguyễn( triều đình Huế) :

- Triều Nguyễn duy trì chính sách bảo thủ, lạc hậu đối với nhân dân. Giữa thế kỉ XIX, khi Pháp đánh chiếm Việt Nam, có nhiều nhà tư tưởng đề nghị canh tân, đổi mới đất nước. Nhưng nhà Nguyễn đã từ chối con đường này. Nhà Nguyễn vẫn tiếp túc chính sách cai trị cũ, làm cho đất nước ngày càng suy yếu, mất dần sức đề kháng trong cuộc chiến chống Pháp. Như vậy, nhà Nguyễn vì sự ích kỉ của mình đã hy sinh quyền lợi của dân tộc.  

- Trong quá trình kháng chiến chống Pháp, nhà Nguyễn còn mắc nhiều sai lầm như từ bỏ con đường vũ trang chống pháp, đi theo con đương thương lượng đầu hàng từng bước đến đầu hàng hoàn toàn; không biết chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi

17 tháng 4 2022

hkvgyluhl;

6 tháng 3 2022

tham khảo

Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy, tạo thành sức mạnh vô địch đập tan bè lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ sự trường tồn của đất nước. Lịch sử chỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức mạnh, giai cấp lãnh đạo phải có đường lối chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh của quần chúng, lấy lợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn dắt, tập hợp toàn dân tộc tạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung. Ngược lại, nếu truyền thống yêu nước không được khơi dậy và phát huy trở thành sức mạnh của dân tộc thì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.

Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.

Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, nhân dân nơi đây, đặc biệt là các đội dân binh đã luôn tích cực ủng hộ, phối hợp với quân triều đình do danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chống lại quân xâm lược. Khi thực dân Pháp không thực hiện được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc phải chuyển hướng tiến đánh Nam Kỳ (tháng 2-1859), đông đảo nhân dân Nam Kỳ đã tích cực tham gia chống Pháp, kể cả sau khi triều đình ký với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862) thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc nước Pháp. Quân Pháp luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”[1].

Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (năm 1867), thực dân Pháp hai lần đánh ra Bắc Kỳ vào các năm 1873, 1882-1883. Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau khi đánh thẳng vào Huế, đổ bộ lên cửa Thuận An, thực dân Pháp từng bước gây áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng (ngày 25-8-1883) và Hiệp ước  Pa-tơ-nốt (ngày 6-6-1884). Đến đây, triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao và phát triển sang một giai đoạn mới: Chống Pháp đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Bất chấp sức mạnh của kẻ thù và sự phản kháng của triều đình Huế, hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc tiếp tục vùng lên chống Pháp. Bên cạnh đó là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, tất cả đều chung một mục đích đứng dậy chống giặc, cứu nước.

Như vậy, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của triều đình nhà Nguyễn ngay từ đầu đã luôn có sự ủng hộ, phối hợp của nhân dân. Trên thực tế, quan quân nhà Nguyễn cũng đã giành được một số thắng lợi. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Đà Nẵng đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, buộc chúng phải từ bỏ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chuyển hướng vào Gia Định. Tại Gia Định, từ giữa tháng 2 đến tháng 3-1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó khăn, buộc chúng phải rút đại bộ phận ra ứng cứu cho lực lượng nguy khốn ở Đà Nẵng. Đáng kể nhất là chiến thắng trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21-12-1873 và 19-5-1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của Pháp, hai tên chỉ huy là trung tá F.Garnier và đại tá H.Rivière tử trận.

Sau mỗi thắng lợi, quân dân ta phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt quân xâm lược. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống Pháp nổi lên khắp nơi, như: Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà Tiên; Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng Tháp Mười; Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, như; Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), Khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh); các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân... Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.

Trong khi đó, đối lập với phong trào đấu tranh của nhân dân, triều đình nhà Nguyễn với tư tưởng “chủ hòa” chi phối đã không dám hiệu triệu quan quân và đông đảo nhân dân thừa thắng xốc tới, trái lại còn ra lệnh cho quan quân lui binh và từng bước bắt tay hòa hoãn, ký với Pháp những điều ước bất lợi, đi đến đầu hàng Pháp, chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi, thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào chống Pháp của nhân dân. Nhiều đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng bị triều đình Nguyễn khước từ. Những vấn đề cốt tử để giữ nước như cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của nhân dân, canh tân đất nước, chấn chỉnh quân đội, mở rộng giao lưu với các nước văn minh… đã không được triều đình Nguyễn thực hiện. Thái độ, hành động đó của triều đình nhà Nguyễn thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân, không quy tụ và phát huy được truyền thống yêu nước bất khuất của nhân dân dưới ngọn cờ chống Pháp.

Mặc dù nhân dân khắp từ Nam chí Bắc liên tục vùng lên chiến đấu và thực dân Pháp phải mất gần 4 thập kỷ (1858-1896) mới hoàn thành công cuộc đánh chiếm và bình định Việt Nam, nhưng do các phong trào đấu tranh chủ yếu tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất, nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Dù đã viết nên những trang sử hết sức oanh liệt, nhưng cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn đã “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”[2]. Ngoài những nguyên nhân khách quan của thời đại, đây chính là nguyên nhân chủ quan, cơ bản, có vai trò quyết định nhất, thể hiện trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước; đồng thời cũng là bài học sâu sắc về đường lối cứu nước nhằm quy tụ, cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc.

Từ bài học lịch sử trong cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19, để khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam-ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (năm 1930) và đóng vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ giữa thế kỷ 19 tuy diễn ra liên tục nhưng đều thất bại; nguyên nhân là do chưa có một đội tiền phong lãnh đạo với đường lối chính trị đúng đắn, nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại kẻ thù chung. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học dựa trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, tạo nên một lực lượng to lớn và rộng khắp, anh dũng đấu tranh, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành tất yếu, là cơ sở bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách mạng với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ thấp, đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.

Từ bài học lịch sử của cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 và thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, để Đảng ta tiếp tục làm tròn sứ mệnh cao cả của mình trước dân tộc, trước nhân dân, là ngọn cờ tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, của nhân dân. Đặc biệt, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, cùng với phát huy nội lực, cần tiếp tục kiên định thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn vậy, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ng...

28 tháng 4 2022

bbbbbbbbbbbbbbbbbb

3 tháng 3 2022

Tham khảo

1. 

Thái độ của Nhân dân:

- Kiên quyết chống xâm lược ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.

- Kiên quyết chống trả khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ.

- Thái độ “bất tuân lệnh” triều đình của nhân dân và sĩ phu yêu nước.

2. 

a. Trước khi Pháp xâm lược :
- Trách nhiệm của nhà Nguyễn với tư cách của một triều đại lãnh đạo quản lí đất nước trước nguy cơ xâm lược từ bên ngoài đã không có những biện pháp để nâng cao sức mạnh tự vệ mà còn thi hành những chính sách thiển cận,sai lầm làm cho tiềm lực quốc gia suy kiệt, hao mòn sức dân không còn khả năng phòng thủ đất nước, tạo điều kiện cho Pháp dẩy mạnh xâm lược .
b.Khi Pháp vào xâm lược nhà Nguyễn với tư cách là người đứng ra lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến đã tiếp tục mắc phải những sai lầm trong đường lối đánh giặc đưa đến hậu quả nước ta rơi vào tay Pháp :
- Ngay từ đầu trước cuộc xâm lăng của kẻ thù, triều đình đã có ý thức chuẩn bị kháng chiến nhưng sự chuẩn bị này lại chậm trễ, bị động, thiếu tích cực và trong quá trình kháng chiến triều đình có tư tưởng ngại địch, sợ địch không chủ động tấn công nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh giặc (dẫn chứng)
- Triều đình đã sử dụng đường lối thủ để hoà, ảo thưởng về kẻ thù, trông chờ vào lương tâm, hảo ý của địch nên đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác xuất phát từ những toan tính ích kỉ muốn bảo vệ quyền lợi dòng họ nên từ chỗ kháng cự yếu ớt đến đầu hàng(d/c: lần lượt kí các bản hiệp ước đầu hàng)
- Triều đình đã không biết phát huy cuộc kháng chiến toàn dân không phối hợp với nhân dân đánh giặc đến cùng mà đã từng bước bỏ rơi, ngăn cản cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống Pháp.
- Triều đình sai lầm trong chủ trương cầu viện bên ngoài.
- Triều đình tiếp tục duy trì đường lối bảo thủ, khước từ mọi đề nghị canh tân , đổi mới đất nước.

3 tháng 3 2022

tham khảo :
câu 1.
 
Thái độ của nhân dân ta khi triều đình Huế kí các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp:

Nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh chống Pháp và chống triều đình. Phong trào kháng chiến chống Pháp trong nhân dân được đẩy mạnh hơn, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra.
câu 2.
 
-Đầu tiên,do nhà Nguyễn không chịu thông thương và buôn bán,trao đổi hàng hóa ở các cửa biển dẫn đến việc Pháp tò mò muốn biết Việt Nam có gì mà không cho phép Pháp thông thương cũng là một phần của nguyên nhân vì sao Pháp đánh Việt Nam.

-Thái độ của triều đình Huế rất nhân nhượng với Pháp khi Pháp tấn công giửa lúc nhân dân ta đang cố gắng đấu tranh p,triều đình lại kí hòa ước với chúng,nhiều lần như vậy cho đến khi Pháp hoàn toàn chiếm được Việt Nam,làm cho nhân dân ta phải chịu đau khổ,uất ức,bị bóc lột nặng nề dưới sự tàn ác của chúng.

- Quan lại triều đình ờ các địa phương đã phản đối lệnh bãi binh => Là cơ sở để phái chủ chiến trong triều đình đẩy mạnh hoạt động.
câu 4 : 
 Triều đình nhà Nguyễn kí với Pháp các bản Hiệp ước với mong muốn có thể thương lượng với thực dân Pháp, quay lưng lại phía nhân dân thể hiện sự nhu nhược, hèn nhát của triều đình. Đặc biệt là với bản hiệp ước Pa-tơ-nôt thì đã

- Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì.

- Triều đình chỉ được cai quản vùng đất Trung Kì nhưng mọi việc đều phải thông quan viên khâm sứ Pháp ở Huế.

- Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình, nắm quyền trị an và nội vụ.

- Mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.

- Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc Kì về Trung Kì.

Như vậy thì cơ bản việc kí các hiệp ước này đã chấm dứt sự tồn tại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập

1 tháng 3 2022

 Vai trò, trách nhiệm, của triều đình nhà Nguyễn trong việc để mất nước vai trò:

- Nhu nhược, hèn yếu,làm mất nhiều thời cơ quan trọng đánh Pháp dù có chống trả nhưng rồi cũng thất bại,tan rã

- Đàn áp các cuộc khởi nghĩa,đấu tranh của nhân dân

- Tiếp tục thực hiện các chính sách nội trị,ngoại giao lỗi thời,lạc hậu,không chấp nhận những thay đổi và từ chối mọi sự cải cách kể cả những cải cách hoàn toàn có thể thực hiện

- Hòa hoãn và kí với Pháp những bản hiệp ước bán nước

Có thể thấy triều đình đóng vai trò rất lớn trong việc đẩy nước ta rơi vào tay thực dân Pháp

18 tháng 3 2021

Có ai giúp mình với?

 

18 tháng 3 2021

- Quân triều đình chống cự yếu ớt và ở trong tư thế, “thủ hiểm”, không quyết tâm chống giặc và chỉ thủ hiểm ở Chí Hoà.

- Nhân dân tự động nổi lên đánh giặc khiến chúng khốn đốn và Quân triều đình thiếu quyết tâm, không có đường lối phù hợp.

- Nhân nhượng Pháp để giữ lấy quyền lợi g/c và quyền lợi dòng họ. =Đất nc chậm pt,suy yếu dần

=> Nhà nước nhu nhược, không có quyết tâm chống giặc. Nhân dân thiếu đường lối đánh gặc, bỏ lỡ cơ hội đánh đuổi giặc pháp,

27 tháng 2 2022

Tham khảo

 

Thái độ

Nhân dân:

- Kiên quyết chống xâm lược ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.

- Kiên quyết chống trả khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ.

- Thái độ “bất tuân lệnh” triều đình của nhân dân và sĩ phu yêu nước.

Triều đình:

- Không kiên quyết động viên nhân dân chống Pháp.

- Bỏ lỡ thời cơ để hành động.

- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỷ, vì quyền lợi của dòng họ bán rẻ dân tộc.

Hành động

Nhân dân:

- Anh dũng chống trả chúng tại Đà Nẵng dẫn đến làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của địch.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt chống sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp và chống sự nhu nhược của triều đình.

- Vì nhân dân, Trương Định ở lại kháng chiến.

Triều đình:

- Bỏ lỡ thời cơ khi địch đánh Gia Định.

- Ký Hiệp ước 1862 để mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

- Để mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867).

- Đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

27 tháng 2 2022

Tham khảo

 

Thái độ

Nhân dân:

- Kiên quyết chống xâm lược ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.

- Kiên quyết chống trả khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ.

- Thái độ “bất tuân lệnh” triều đình của nhân dân và sĩ phu yêu nước.

Triều đình:

- Không kiên quyết động viên nhân dân chống Pháp.

- Bỏ lỡ thời cơ để hành động.

- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỷ, vì quyền lợi của dòng họ bán rẻ dân tộc.

Hành động

Nhân dân:

- Anh dũng chống trả chúng tại Đà Nẵng dẫn đến làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của địch.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt chống sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp và chống sự nhu nhược của triều đình.

- Vì nhân dân, Trương Định ở lại kháng chiến.

Triều đình:

- Bỏ lỡ thời cơ khi địch đánh Gia Định.

- Ký Hiệp ước 1862 để mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

- Để mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867).

- Đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

5 tháng 3 2022

Triều đình đã bỏ bê việc nước,không lo kháng chiến mà còn bán nước cho giặc.

6 tháng 3 2022

- Triều Nguyễn duy trì chính sách bảo thủ, lạc hậu đối với nhân dân. Giữa thế kỉ XIX, khi Pháp đánh chiếm Việt Nam, có nhiều nhà tư tưởng đề nghị canh tân, đổi mới đất nước. Nhưng nhà Nguyễn đã từ chối con đường này. Nhà Nguyễn vẫn tiếp túc chính sách cai trị cũ, làm cho đất nước ngày càng suy yếu, mất dần sức đề kháng trong cuộc chiến chống Pháp. Như vậy, nhà Nguyễn vì sự ích kỉ của mình đã hy sinh quyền lợi của dân tộc.

- Trong quá trình kháng chiến chống Pháp, nhà Nguyễn còn mắc nhiều sai lầm như từ bỏ con đường vũ trang chống pháp, đi theo con đương thương lượng đầu hàng từng bước đến đầu hàng hoàn toàn; không biết chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi.

6 tháng 4 2023

7: nhân dân ta hăng hái chống Pháp quyết hi sinh đến cùng để bve quyền tự do của nước VN.
6: Thái độ triều đình: bảo thủ, bạc nhược, ko tỉnh táo và ko hăng hái chống Pháp cùng nhân dân.
8:

Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương

Khởi nghĩa Hương Khê (1885–1896) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê, Hà Tĩnh. Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An.

Khởi nghĩa Ba Đình (1886–1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.

9:Thực dân Pháp xâm lược vào ngày 31-8- 1858
10:Nhâm Tuất: 5-6-1862
Giaps Tuất:15 tháng 3 năm 1874
Hắc-măng:25-8-1883
Pa-tơ-nốt: 6-6-1884
11:Diễn biễn cuộc khởi nghĩa được chia làm 2 giai đoạn: * Từ năm 1885 - 1888: giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu của nghĩa quân.

12:Phong trào Cần Vương thất bại có nguyên nhân đến từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các lãnh đạo của phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi xuất thân, khi họ bị bắt hoặc giết thì nghĩa quân đầu hàng hoặc giải tán.

Học tốt !

6 tháng 4 2023

ý bạn vẫn còn sơ sài, cần bổ sung thêm để đủ ý