K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 tháng 10 2017

1 Nhận xét: Cải tổ được tuyên bố như một cuộc cách mạng nhằm khắc phục những sai lầm thiếu sót trước đây, đưa đất nước thoát khỏi khủng hỏang và xây dựng một chủ nghĩa xã hội theo đúng bản chất và ý nghĩa nhân văn đích thực của nó. Nhưng do không có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết và thiếu một đường lối chiến lược toàn diện, nhất quán, nên công cuộc cải tổ nhanh chóng lâm vào tình trạng bị động, lúng túng, đầy khó khăn.

2 ko biết

Kết luận: ko biết đúng hay sai

8 tháng 3 2021

NX: là thực dân rất gian xảo và nhiều mưu mô. mặc dù đã kí rất nhiều hiệp ước nhưng chúng đều không thực hiện, phá lệ, coi chúng ta như nô lệ, tay sai để chúng đàn áp, cưỡng bức.

Lời kêu gọi giúp em hiểu thêm:

- lúc đó dân tộc VN ta rất cần sự giúp đỡ, hộ trợ

- nhân dân ta lên đoàn kết để đánh đuổi giặc ngoại xâm

- nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí dân tộc

 Good luck~

27 tháng 1 2019

Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và cả tương lai.

Việt Nam có bờ biển dài khoảng 3.260km từ Bắc xuống Nam, chiếm tỷ lệ khoảng 100km2 đất liền/1km bờ biển (mức trung bình trên thế giới là 600km2 đất liền/1km bờ biển) và hơn 3.000 hòn đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong 63 tỉnh, thành phố của nước ta, có 28 tỉnh, thành phố giáp biển. Biển Đông không những cung cấp nguồn thức ăn cho cư dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay mà còn là cửa ngõ để Việt Nam phát triển các ngành kinh tế có quan hệ trực tiếp với các miền của đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao đổi và hội nhập của nhiều nền văn hóa.

Xét về khía cạnh kinh tế, Biển Đông đã tạo điều kiện để Việt Nam phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn như: thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch…

Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt Nam. Dọc bờ biển Việt có 10 điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu và nhiều điềm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển có thể đạt 50 triệu tấn/năm.

Biển Đông cung cấp nguồn lợi hải sản rất quan trọng. Theo các điều tra về nguồn lợi tài sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có 6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130 loài cá kinh tế), 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển... Trữ lượng cá biển ước tính trong khoảng 3,1-4,1 triệu tấn, khả năng khai thác là 1,4-1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế chủ đạo với giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 cả nước.Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lược quan trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn… được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác 4-5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3.

Biển Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch, ngành công nghiệp không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế đất nước. Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vụng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn, nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long được UNESCO xếp hạng.Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non Nước… các di tích lịch sử và văn hóa như Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm… đều được phân bố ở vùng ven biển.

Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đaị như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái; nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền…; có thể tổ chức các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm; dịch vụ hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế.

Ngoài ra, ven biển Việt Nam chứa đựng một tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm, trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá, chúng được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, sa khoáng titan, sa khoáng ilmenit, sa khoáng cát đen.

Xét về mặt an ninh quốc phòng, Biển Đông đóng vai trò quan trọng là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước. Các đảo và quần đảo trên Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển qua lại Biển Đông mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với Việt Nam.

Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của người Việt Nam. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học. Các tư liệu khoa học và pháp lý được công bố hiện nay, đều thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam: bắt ngư dân Việt làm ăn, tấn công các tàu Việt trên vùng biển của chính Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa...

Những hành động nói trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm DOC, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.

30 tháng 5 2019

Đông Nam Á mở rộng 4,5 triệu km vuông gồm 11 quốc gia Việt Nam Lào Thái Lan Campuchia Indonesia Philippines Malaysia Myanmar điện Đông Timor và Brunei và Singapore

Trước những năm 1945 ở Đông Nam Á Đều trở thành thuộc địa của thực dân Âu Mỹ trừ Thái Lan

Trong chiến tranh thế giới thứ 2 các nước ở Đông Nam Á bị biến trở thành thuộc địa của quân phiệt Nhật

lợi dụng Nhật đầu hàng phe đồng minh một số nước ở Đông Nam Á đã nổi dậy đấu tranh giành chính quyền như Indonesia Việt Nam Lào từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1945 nhưng nhưng ngay sau đó các nước thực dân Âu Mỹ lại quay trở lại tái chiếm Đông Nam Á nhân dân các nước lại phải đấu tranh kháng chiến chống thực dân đấu tranh kiên cường và gian khổ năm 1954 cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp của ba nước Việt Nam Lào Campuchia kết thúc thắng lợi chấm Vân Hà công nhận Cộng hòa Indonesia năm 1949 ngày 15 tháng 8 năm 1950 nước cộng hòa Indonesia ra đời trong bối cảnh Trung đó các nước thực dân phải công nhận độc lập của Philippines ngày mùng 4 tháng 7 năm 1946 hiện vào ngày mùng 4 tháng 1 năm 1948 mãi vào ngày 31 tháng 8 năm 1957 chỉ của Singapore ngày mùng 3 tháng 6 năm 1959 như vậy từ giữa những năm 50 của thế kỷ 20 ở Đông Nam Á giành được độc lập

nước Việt Nam Lào Campuchia tiến hành cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ năm 1975 mới kết thúc hoàn toàn

riêng Bruneiđến năm 1987 mới tuyên bố là một quốc gia độc lập

Đông Timor ra đời sau cuộc trư ra đời sau cuộc trưng cầu dân ý ở Indonesia và 4 năm 1999 đến ngày 20 tháng 5 năm 2002 Đông Timor trở thành quốc gia độc lập

sau khi giành được độc lập đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế văn hóa xã hội của đất nước ở Đông Nam Á đã chủ trương thành lập tổ chức liên minh khu vực em cùng nhau hợp tác phát triển đồng thời hạn chế sự can thiệp của các nước bên ngoài đối với khu vực nhất là trong bối cảnh cuộc chiến tranh của Mỹ diễn ra ở Đông Dương ngày càng phức tạp thậm chí có nguy cơ thất bại

ngày mùng 8 tháng 8 năm 67 Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( gọi tắt theo tiếng Anh là Asean) ra đời tại Băng Cốc Thái Lan gồm 5 nước Philippines Malaysia Singapore Thái Lan Indonesia

mục tiêu của tổ chức Asean là phát triển kinh tế văn hóa xã hội trên nỗ lực chung của các thành viên trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực

sự hình thành của tổ chức Asean

trong thời kỳ từ năm 1967 đến năm 1975 ASEAN là một tổ chức non trẻ sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo chưa có chỗ đứng trên trường quốc tế. sự khởi sắc của Asean được đánh dấu trong hội nghị cấp cao diễn ra tại Bali Indonesia tháng 2 năm 1976, với việc ký hiệp ước hợp tác và thân thiện của Đông Nam Á( gọi là hiệp ước Bali). hiệp ước Bali đánh dấu nguyên tắc cơ bản giữa các nước thành viên Như: tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, hợp tác cùng phát triển có hiệu quả

trong thời kỳ này quan hệ giữa các nước Đông Dương và Asean bước đầu được cải thiện hai nhóm nước đã thiết lập quan hệ và đã có những chuyến thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cao cấp

22 tháng 5 2021

D.Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển

22 tháng 5 2021

Các bạn có tìm hiểu thông tin kỹ không mà sao trả lời sai hết nhỉ ?

21 tháng 12 2019

câu 1 là cu thế thế giới nha mn em đánh bị lỗi!

21 tháng 12 2019

xu thế thế giới ạ !

11 tháng 12 2016

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đòi độc lập dân tộc đã diễn ra sôi nổi ở châu Phi. Phong trào nổ ra sớm nhất là ở vùng Bắc Phi, nơi có trình độ phát triển cao hơn các vùng khác trong lục địa. Khởi đầu là thắng lợi của cuộc binh biến tháng 7 - 1952 của các sĩ quan yêu nước do Đại tá Nát-xe chỉ huy. Cuộc binh biến này đã lật đổ chế độ quân chủ và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Ai Cập ngày 18 - 6 - 1953. Tiếp đó là thắng lợi của cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài từ năm 1954 đến năm 1962 của nhân dân An-giê-ri nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi” với sự kiện 17 nước ở lục địa này tuyên bố độc lập. Từ sau đó, hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc lần lượt tan rã, các dân tộc châu Phi giành lại được độc lập và chủ quyền.
Các nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội và đã thu được nhiều thành tích. Nhưng những thành tích ấy chưa đủ sức làm thay đổi một cách căn bản bộ mặt của châu Phi. Nhiều nước châu Phi vẫn ở trong tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình châu Phi ngày càng khó khăn và không ổn định. Đó là các cuộc xung đột nội chiến đẫm máu do mâu thuẫn sắc tộc hoặc tôn giáo, tình trạng đói nghèo, nợ nần chồng chất và các loại dịch bệnh hoành hành.
- Từ năm 1987 đến năm 1997, riêng ở châu Phi có tới 14 cuộc xung đột và nội chiến. Do xung đột giữa hai bộ tộc Hu-tu và Tu-xi ỏ Ru-an-đa, một quốc gia nhỏ ở Trung Phi rộng 26 nghìn km2 với dân số 7,4 triệu người (2002), đã có tới 800 nghìn người thiệt mạng, 12 triệu người phải lang thang tị nạn.
- Liên hợp quốc xếp 32 trong 57 nước châu Phi vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới. 1/4 số dân châu Phi thuộc diện đói ăn kinh niên
Vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX, số nợ của các nước châu Phi lên tới 300 tỉ USD.
Trong những năm gần đây, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, các nước châu Phi đã tích cực tìm kiếm các giải pháp, đề ra cải cách nhằm giải quyết các cuộc xung đột khắc phục những khó khăn về kinh tế, thành lập các tổ chức liên minh khu vực. Lớn nhất là Tổ chức thống nhất châu Phi, nay gọi là Liên minh châu Phi (AU).

 

30 tháng 10 2017

cô Sen Phùng giúp em

30 tháng 10 2017

Các nước đông Nam Á:

– Đông Nam Á gồm 11 nước: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo, Mianma,Brunây và Đông Timo.

– Trước 1945 đều là thị trường và thuộc địa của tư bản Phương Tây, sau năm 1945 có nhiều biến đổi.

– Biến đổi thứ nhất: Từ các nước thuộc địa, nửa thuộc địa trước chiến tranh thế giới thứ hai, đến nay Đông Nam Á trở thành các nước độc lập.

+ Việt Nam: Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã giành được độc lập. Sau đó phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp lần 2 và cuộc kháng chiến chống Mĩ đến 1975 mới thắng lợi hoàn toàn.

+ Lào:Tháng 10-1945 tuyên bố độc lập. Sau đó tiến hành kháng chiến chống Pháp, Mĩ đến tháng 12-1975 mới giành thắng lợi.

+ Campuchia: Sau 1945, kháng chiến chống Pháp, Mĩ, đến năm 1975 kết thúc. Tiếp tục chống phản động Pônpốt đến 7-1-1979 mới thắng lợi.

+ Inđônêxia: 8-1945 tuyên bố độc lập. Sau đó Hà Lan tái chiếm, ngày 15-8-1950 nước Cộng hoà Inđônêxia ra đời.

+ Malaixia: 8-1957 độc lập.

+ Philippin: 7-1946 Mĩ công nhận độc lập.

+ Xingapo: 8-1957 Anh công nhận độc lập (8-1963 tách khỏi Liên bang Malai xia)

+ Thái Lan: Sau 1945 Mĩ hất chân Anh kiểm soát Thái Lan

+ Mianma: 1-1948 Anh công nhận độc lập.

+ Brunây: 1-1984 độc lập.

+ Đôngtimo: 5-2002 tách khỏi Inđônêxia, trở thành quốc gia độc lập.

– Biến đổi thứ 2: Sau khi giành độc lập các nước ĐNÁ ra sức xây dựng , phát triển kinh tế – xã hội theo những mô hình khác nhau và đạt được nhiều thành tựu to lớn như : Malaixia, Inđônêxia,Thái Lan (đặc biệt là Xigapo)

– Biến đổi thứ 3: Đến 30-4-1999 có 10/11 nước ĐNÁ là thành viên của khối (ASEAN), đây là một liên minh kinh tế- chính trị ở khu vực, nhằm xây dựng một ĐNÁ vững mạnh, tự lực tự cường