K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.

     Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

     Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan,

         Nước khe cơm vắt gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

     Buổi chiến trận mạng người như rác,

     Phận đã đành đạn lạc tên rơi,

         Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

     Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp,

     Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

         Ngẩn ngơ khi trở về già,

Ai chồng con tá biết là cậy ai?

     Sống đã chịu một đời phiền não,

     Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

         Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

     Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

     Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

     Thương thay cũng một kiếp người,

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

                                  (Nguyễn Du, Văn tế thập loại chúng sinh(1))

Chú thích: 

Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn chiêu hồn, là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Nôm của đại thi hào Nguyễn Du, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương tuần báo năm 1939 thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802 - 1812).

Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên. 

Câu 2. Liệt kê những kiếp người xuất hiện trong đoạn trích.

Câu 3. Trình bày hiệu quả của việc sử dụng từ láy trong hai dòng thơ dưới đây:

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Câu 4. Phát biểu chủ đề và cảm hứng chủ đạo của đoạn trích.

Câu 5. Từ cảm hứng chủ đạo của đoạn trích, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về truyền thống nhân đạo của dân tộc ta (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).

1
12 tháng 11 2024

Tiếp

BÀI 3

 

18 tháng 3 2016

DÀN Ý

1. Đất nước nằm ngay trong bản thân của mỗi người, là một phần trong đời sống của mỗi người.

- Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

- Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình

2. Tác giả biện chứng về tinh thần đoàn kết gắn với sự trưởng thành của đất nước.

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn to lớn

- Chú ý khai thác khái niệm cầm tay, mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa đoàn kết và sự phát triển của đất nước 

3. Sự trường tồn của đất nước gắn liền với sự tiếp nối của các thế hệ công dân.

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

- Chú ý khai thác mối quan hệ giữa Con ta - đất nước mơ mộng trong tương lai => Chứa đựng niềm tin vào sự trường tồn và tươi đẹp của Đất nước

4. Ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước

Phải biết gắn bó và san sẽ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời.”

- chú ý khai thác giọng điệu tự nhủ - nhắn nhủ và nghệ thuật điều kiểu câu cầu khiến “Phải biết...”, giả thích khái niệm “hóa thân” 

5. Đánh giá chung:

            - Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm : Trữ tình - chính luận.

18 tháng 3 2016

                        Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” được Huy Cận viết vào năm 1960, được in trong tập “Bài thơ cuộc đời” (1963).  Chùa Tây Phương là một chùa cổ đẹp nổi tiếng ở huyện Thạch Thất thuộc tỉnh Hà Tây.  Có thuyết cho rằng chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 18.  (Sách Văn 12).  Lại có thuyết khẳng định: Chùa Tây Phương được xây dựng khá lâu đời.  Năm 1554, chùa được trùng tu.  Năm 1660, chúa Trịnh Tạc đến thăm và cho sửa sang lại, chùa càng đẹp hơn, quy mô hơn.  Đến đời Tây Sơn, chùa lại được trùng tu một lần nữa và đúc chuông “Tây Phương cổ tự” (theo Nguyễn Phi Hoành).
                          Ngắm nhìn các pho tượng La Hán chùa Tây Phương – công trình mĩ thuật tuyệt diệu Huy Cận lòng vấn vương về nỗi đau đời khát vọng cứu đời của người xưa.  Trong niềm vui đổi đời, nhà thơ vô cùng cảm thông với ông cha những thế kỷ trước, càng tin tưởng tự hào về chế độ mới sẽ mang lại hạnh phúc cho toàn dân.  Sau khổ thơ đầu nhập đề bằng những vấn vương, ám ảnh của nhân vật trữ tình về các pho tượng chùa tây Phương,đến đoạn thơ này gồm 4 khổ thơ.  Trong đó ba khổ đầu, mỗi khổ là một pho tượng hiện lên với những dáng vẻ, tư thế khác nhau tiêu biểu cho cả quần thể tượng.

               Pho tượng La Hán thứ nhất là hiện thân của sự tích diệt đến khô gầy.  Chân với tay chỉ còn lại “xương trần”.  Tấm thân gầy như đã bị “thiêu đốt”.  Mắt sâu thành “vòm” với cái nhìn “trầm ngêm đau khổ?”.  Dáng ngồi tĩnh tọa bất động qua mấy ngàn năm:
                                “Đây vị xương trần chân với tay

                                 Có chí thiêu đốt tấm thân gầy

                                 Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt

                                Tự bấy ngồi y cho đến nay”.

             Pho tượng La Hán thứ hai như chứa đựng biết bao vật vã, dằn vặt, đau khổ.  Mắt thì “giương”, mày thì “nhíu xệch”.  Trán như đang “nổi sóng biển luân hồi” vô cùng vô tận.  Môi cong lên “chua chát”.  Tâm hồn khô héo.  Bàn tay “gân vặn”, mạch máu thì “sôi” lên.  Các chi tiết nghệ thuật, những nét khắc, nét chạm bằng ngôn ngữ đã gợi tả vẻ dữ dội đầy ấn tượng: về một chân tu khổ hạnh:

                              “Có vị mắt giương, mày nhíu xệch

                               Trán như nổi sóng biển luân hồi

                               Môi cong chua chát tâm hồn héo

                               Gân vặn bàn tay mạch máu sôi”

             Pho tượng La Hán thứ ba rất dị hình.  Ngồi trong tư thế “chân tay co xếp lại” chẳng khác nào chiếc thai non “tròn xoe”.  Đôi tai rất kì dị “rộng dài ngang gối”.  Vị tu hành này như suốt đời “nghe đủ chuyện buồn” của chúng sinh:

                              “Có vị chân tay co xếp lại

                              Tròn xoe tựa thể chiếc thai non

                               Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối

                              Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn”

          Tóm lại, phần đầu bài thơ rất đặc sắc.  Nghệ thuật tả các pho tượng rất biến hoá, nét vẽ, nét tạc nào cũng sống động và có hồn.  Tượng La Hán là những tĩnh vật, nhưng tượng nào cũng được tả trong những tư thế và cử chỉ khác nhau, với một cõi tâm linh sâu thẳm.  Các vị La Hán như đi tìm phép nhiệm màu cứu nhân độ thế, đang vật vã trong bế tắc.  Nhà thơ không chỉ phản ánh một xã hội quằn quại đau khổ trong những biến động và bế tắc không tìm được lối ra mà còn thể hiện một tinh thần nhân đạo đáng quý, trân trọng và cảm thông.

           Từ việc quan sát và miêu tả sắc sảo các pho tượng, đoạn thơ gợi lên những cảm nhận và suy tưởng sâu sắc về những khổ đau, bế tắc của cha ông trong quá khứ.  Đoạn thơ bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những cuộc đời cũ khi chưa tìm được lối ra. 

Đề 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới: (1)Gậy tre chông tre chống lại sắt thép của quânthù. (2)Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. (3)Tre giữlàng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. (4)Tre hi sinh để bảo vệ con người. (5)Tre, anh hùnglao động! (6)Tre, anh hùng chiến đấu! (Trích Cây tre Việt Nam, ThépMới) Câu 1 (1đ): Nêu xuất xứ và thể loại của văn bản...
Đọc tiếp

Đề 1:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới:

(1)Gậy tre chông tre chống lại sắt thép của quânthù. (2)Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. (3)Tre giữlàng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. (4)Tre hi sinh để bảo vệ con người. (5)Tre, anh hùnglao động! (6)Tre, anh hùng chiến đấu!

(Trích Cây tre Việt Nam, ThépMới)

Câu 1 (1đ): Nêu xuất xứ và thể loại của văn bản “Câytre Việt Nam”?

Câu 2 (2đ): Xác định chủ ngữ, vị ngữ của câu (4) vàcho biết đó là câu gì?

Câu 3 (2đ): Phân tích tác dụng của phép nhân hóatrong đoạn trích trên?

Câu 4 (5đ): Bằng một đoạn văn ngắn khoảng 8 câu,nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của cây tre Việt Nam, trong đoạn văn có sử dụng biện pháp tu từ so sánh. (Gạch chân chú thích )

Đề 2:

Bằng niềm xúc động về người anh hùng nhỏ tuổi, nhàthơ Tố Hữu viết: "Chú loắt choắt

Câu 1(): Hãy chép chính xác các câu thơ còn lại đểtạo thành hai khổ thơ hoàn chỉnh.

Câu 2 (2đ): Cho biết hoàn cảnh sáng tác và thể loại củabài thơ có hai khổ thơ trên.

Câu 3 (2đ): Chỉ ra phép tu từ so sánh và tác dụng củaphép tu từ ấy trong hai khổ thơ em vừa chép.

Câu 4 (5đ): Viết đoạn văn khoảng 8 câu nêu cảm nhậncủa em về hình ảnh chú bé Lượm trong hai khổ thơtrên, trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn có từ“”. (Gạch chân chú thích )

Đề 3:

Đọc đoạn thơ sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:

Anh đội viên màng

Như nằm trong giấc mộng

Bóng Bác cao lồng lộng

Ấm hơn ngọn lửa hồng

Câu 1 (2đ): Những dòng thơ trên nằm trong bài thơnào? Tác giả là ai? Trình bày hoàn cảnh sáng tác củabài thơ?

Câu 2 (1đ): Đoạn thơ trên là khổ thơ thứ mấy của bàithơ? Đoạn thơ kể về lần thứ mấy anh đội viên thứcdậy?

Câu 3 (2đ): Khổ thơ trên có sử dụng biện pháp nghệthuật gì? Em hãy trình bày tác dụng của biện phápnghệ thuật đó?

Câu 4 (5đ): Viết đoạn văn khoảng 8 câu nêu cảm nhậnvề đoạn thơ trên, trong đó có sử dụng một câu trầnthuật đơn có từ “”. (Gạch chân chú thích )

0
18 tháng 3 2016

           

 

            Tố Hữu là một thi sĩ- chiến sĩ.  Thơ Ông gắn liền với Đảng với quê hương.  Đối với ông, thơ ca không ngoài mục đích phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng.  Trong nguồn mạch thơ trữ tình chính trị, ông tìm về quá khứ của thế hệ cha ông để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm nguồn sinh lực mới cho thời đại mới hôm nay.  Bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du” là một trong những bài tiêu biểu cho việc tìm về quá khứ để đồng cảm trân trọng cha ông xưa.

            Bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du”được Tố Hữu viết năm 1965,lúc ấy nhà thơ có dịp qua quê hương Nguyễn Du và nhân kỉ niệm hai trăm năm ngày sinh Nguyễn Du.  Ông xúc động viết bài thơ này.  Sau khi  cảm nhận thấm thía lòng thương người  và nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Du, Tố Hữu đã thốt lên những vần thơ  thật xúc động:

                                    Tiếng thơ ai động đất trời

                                    Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

                                    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

                                   Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

                                   Hỡi người xưa của ta nay

                                   Khúc vui xin lại so dây cùng người

             Với sự cảm nhận sâu sắc, ngưỡng mộ tài năng và lòng thương người bao la của Nguyễn Du, Tố Hữu đã vết hai câu mở đầu đoạn với lòng trân trọng:

                                                 Tiếng thơ ai động đất trời

                                    Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

             Tố Hữu ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi.  Bằng cách so sánh ẩn dụ tài tình, Ông đã nâng tầm cao giá trị của tiếng thơ Nguyễn Du.  Ông đã ví tiếng thơ ấy là “non nước” vọng về từ ngàn năm trước.  Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào hân hoan đón nhận của hậu thế.  Tiến thơ ấy thật đáng trân trọng, thật đáng ngượng vọng.  Hai câu thơ đã khái quáược tầm vóc, giá trị to lớn của thơ Nguyễn Du cũng tài năng của cụ.  Mặt khác hai câu thơ trên còn thể hiện tình cảm cao đẹp của Tố Hữu-  thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khứ của cha ông. Tố Hữu tiếp tục nâng tầm cao giá trị thơ Nguyễn Du có tính vĩnh hằng ở hai câu sau:

                                                Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

                                      Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

             Nghìn năm là mãi mãi, sẽ không quên Nguyễn Du.  “ Nghìn năm” là  khoảng thời gian của bao thế hệ hôm nay và mai sau sẽ nhớ.  Đó là tấc lòng tri ân của các thế hệ hôm nay và mai sau sẽ không quên thơ Nguyễn Du.  Tiếng thơ Nguyễn Du được ví như “tiếng mẹ ru những ngày”.  Tiếng mẹ gần gũi và thân thiết quá.  Tiếng thơ Nguyễn Du là tiếng thương, tiếng nhẹ nhàng ân tình, gửi bao ước mơ và khát vọng cháy bỏng.  và vì thế tiếng thơ Nguyễn Du là

 

 

tiếng ru của mẹ, ân tình, ngọt ngào lắng đọng vào mỗi thế hệ.  

            Khúc hát ru ân tình ấy là lời thủ thỉ cho con cháu – thế hệ hôm nay vững bước đi lên.  Với sự trân trọng va biết ơn Nguyễn Du, Tố Hữu đã chắp bút viết nên những câu thơ hay như thế.  Hai câu cuối là lời đồng vọng của quá khứ hòa nhập cùng thế hệ hôm nay để vang lên bài ca tự hào

                                            Hỡi người xưa của ta nay

                                  Khúc vui xin lại so dây cùng người

             Nhà thơ khẳng định Nguyễn Du là người của quá khứ nhưng cũng là người của hôm nay là “người xưa” mà “của ta nay”.  Nhà thơ xin hòa ca khúc vui của hôm nay vào  khúc bi ai xưa để chia sẻ, cảm thông và kính trọng quá khứ.

bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn,, giọng điệu ân tình tha thiết, đậm chất dân tộc.  Khổ thơ đã thể hiện rõ lòng trân trọng  thơ Nguyễn Du cũng như tài năng Nguyễn Du với.  Đoạn thơ cũng cho thấy Tố Hữu có sự cảm nhận đầy đủ so với các nhà thơ cùng thời.

              Bài thơ “ Kính gửi cụ Nguyễn Du” cũng như Đoạn thơ lục bát này phảng phất hơi thơ Truyện Kiều.  Tố Hữu đã tổng kết đánh giá  cuộc đời Nguyễn Du thật chính xác và sâu sắc.  Đó còn là tiếng lòng trân trọng của hậu thế đối với Nguyễn Du.

 

18 tháng 3 2016
Tháng 11/1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn Du và nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ hôm nay của dân tộc.
 
Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:
 
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
 
Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng. Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả thật thành công tấm lòng của một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều", một công trình đồ sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho tàng văn học Việt Nam. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp với một tấm lòng khát vọng tìm về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:
 
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
 
Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu- thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.
 
Lối thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh hằng khác:
 
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
 
Nghìn năm là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ.. Một lần nữa cảm hứng ngợi ca chắp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng trước một thiên tài. Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con- thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành.
 
Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào: 
 
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
 
Trên trục kết cấu "xưa-nay", "con-Người" cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm tri âm. "Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ "cùng" đã thể hiện đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân trọng.
 
Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng con thế hệ hôm nay đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang theo nhịp đập của quá khứ.
 
Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng thơ trữ tình - chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay:
 
Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
18 tháng 3 2016

Dàn ý :

1. Giới thiệu chung

- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Việt Bắc”

- Vị trí và ý nghĩa khái quát của đoạn trích

 + Đoạn thơ la một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm: thể hiện một cách tập trung vẻ đẹp, giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của To Hữu.

 + Đoạn thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ tha thiết bồi hồi giữa kẻ ở người về, giữa người cán bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc mà còn tạo nên bộ tứ bình độc đáo của thiên nhiên vùng rừng núi chiến khu.

2. Bình giảng đoạn thơ

2.1 Ý nghĩa của 2 câu thơ mở đoạn

- Nỗi nhớ là cảm xúc bao trùm. Đây là nỗi nhớ của người về hướng tới “những hoa cùng người”- hướng tới thiên nhiên và con người Việt Bắc.

- Hai câu thơ mang giai điệu dân ca ngọt ngào, sau lắng (chú ý cặp từ “ta”, “mình”) là cảm hứng chủ đạo tạo nên các cung bậc nhớ cụ thể và cảnh vật cụ thể hữu tình của cảnh và người ở 8 câu thơ sau.

2.2 Vẻ đẹp của 8 câu thơ tiếp theo

- Đoạn thơ làm ta liên tưởng tới bức tranh tứ bình trong dân gian, trong “Truyện Kiều” nhưng lại mang sắc thái riêng của quê hương Việt Bắc.

- Sự chuyển vận của thời gian từ xuân sang hè với vẻ đẹp hoang sơ mà tráng lệ của núi rừng Việt Bắc:

Các hình ảnh cần chú ý:

+ “Hoa chuối đỏ tươi”, “mơ nở trắng rừng” …. Đặc biệt là cảnh “ve kêu rừng phách đổ vàng”: câu thơ hay, thời gian như cũng mang màu sắc và từ “đổ” như nhãn tự làm sống dậy nét độc đáo của Việt Bắc.

+ Đánh giá nghệ thuật hòa sắc tài tình của nhà thơ.
+ Bình giảng những câu thơ hay như: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, “Nhớ người em gái hái măng một mình” … là những câu thơ độc đáo in đậm bản sắc người Việt Bắc: giản dị, mạnh mẽ, hào hùng và cũng rất duyên dáng nên thơ, …
+ Khai thác khía cạnh tạo hình và phối âm trong các câu thơ trên.
+Câu hết đoạn thơ như một dấu ngân dài thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Bắc. (Chú ý đại từ “Ai” và cụm từ “tiếng hát ân tình”.)

3. Đánh giá chung
- Giá trị của đoạn thơ so với toàn bài.
- Nét đặc sắc của đoạn thơ còn được bộc lộ ở hình thức đối thoại của nhân vật trữ tình, cách thể hiện ấy kết hợp với giọng thơ ngọt ngào mang dấu ấn của sự hồi tưởng, suy tư đã làm nên sức hấp dẫn và vẻ đẹp của phong cách Tố Hữu.

 

11 tháng 3 2016

DÀN BÀI

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và quan trọng là giới thiệu đoạn thơ cần phân tích.

2. Đại ý: Đoạn thơ miêu tả hình ảnh người mẹ gánh chịu những hậu quả thảm khốc, nặng nề của chiến tranh

3. “Bên kia sông Đuống” là một trạng ngữ chỉ nơi chốn -> Chỉ quê hương Kinh Bắc. Đồng thời cụm từ này vừa cho ta thấy tâm thế ngóng vọng về quê hương của tác giả -> Tình yêu quê hương của tác giả. ( Lưu ý: cụm từ này lặp lại nhiều lần trong bài và thường xuất hiện ở đầu các đoạn thơ viết về Kinh Bắc )

4. Hình ảnh người mẹ: “Mẹ già ... sương sớm”

            - “Mẹ già nua ... hàng rong”: ngôn ngữ câu thơ giàu chất tạo hình và gợi cảm, giúp ta hình dung hình ảnh già nua, gầy guộc của người mẹ, đồng thời cảm nhận cái gian khổ vất vả cả một đời của mẹ. Thế nhưng tuổi già mẹ phải tư bương chải kiếm ăn “gánh hàng rong”.

            - Các số từ chỉ số ít : dăm, mấy, vài -> gánh hàng ít ỏi, gia tài của mẹ chỉ vỏn vẹn chừng đó thôi.

- Hình ảnh “đầm hoen sương sớm” là hình ảnh vừa tả thực, vừa đẫm chất thơ, có khả năng khơi gợi mạnh mẽ. Giấy hoen sương cũng chính là mẹ hoen sương!

=> Hình ảnh người mẹ vát vả, nghèo khổ đáng thương.

5. Hình ảnh và tội ác của bọn giặc:

            - “Chợt”: Sự xuất hiện bất ngờ , gây hoảng sợ cho mẹ

            - Hình ảnh bọn giặc: Lũ quỷ mắt xanh ...-. gớm ghiếc, đáng sợ.

            - Tội ác: các động từ khua, đạp, cướp bóc, cùng với nghệ thuật tương phản hình ảnh bọn giác với người mẹ, đoạn thơ cho ta nhận thức sâu sắc về tội ác dã man, vô nhân đạo của kẻ thù.

=> Tiếng nói căm thù và đau xót của tác giả.

6. Hậu quả ở phiên chợ nghèo (2 câu cuối )

            - Sử dụng thể thơ lục bát: chậm, trĩu nặng nỗi buồn -> tìm về cái hồn dân tộc rong thơ Hoàng Cầm.

            - Câu thơ có 4 sự kết thúc: Đời người (máu), đời lá (lác đác), một ngày (chiều), một năm (đông) => ấm hưởng buồn tẻ, khung cảnh tang thương.

            - Câu cuối: ngôn ngữ thơ vừa có tính cụ thể, vừa có khả năng khái quát “ máu loang - chiều mùa đông”

7. Đoạn thơ thể hiện niềm đau xót của tác giả  trước hình ảnh người mẹ phải gánh chụi những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đồng thời qua đó tác giả bày tỏ niềm căm thù giặc sâu sắc.

 

Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ Vô tư quá để bây giờ xao xuyến Bèo lục bình mênh mang màu mực tím Nét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông... Ta lớn lên bối rối một sắc hồng Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội Ta nhận ra mình đang lớn khôn... Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng Rút những cọng rơm vàng về kết...
Đọc tiếp

Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ

Vô tư quá để bây giờ xao xuyến

Bèo lục bình mênh mang màu mực tím

Nét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông...

Ta lớn lên bối rối một sắc hồng

Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi

Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội

Ta nhận ra mình đang lớn khôn...

Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng

Rút những cọng rơm vàng về kết tổ

Đã dạy ta với cánh diều thơ nhỏ

Biết kéo về cả một sắc trời xanh

(Trích "Mặt đường khát vọng" - Nguyễn Khoa Điềm)

1. Tìm những từ ngữ nói lên tâm trạng, cảm xúc của tác giả khi nhớ về quá khứ.
2. Chỉ ra và nêu hiệu quả của việc sử dụng phép tu từ so sánh trong hai dòng thơ:

"Ta lớn lên bối rối một sắc hồng
Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi".

1
3 tháng 12 2019

1. Xao xuyến, bối rối, nhớ về, biết ơn.

2. Phép so sánh đã làm sinh động cho cách diễn đạt. Ý thơ muốn nói mỗi mùa phượng vĩ nở là người học trò gần thêm với mùa chia tay. Tuy họ được lớn lên, được trưởng thành nhưng cũng dần rời xa mái trường và điều đó khiến nhân vật trữ tình trở nên nhớ nhung, bối rối và luyến tiếc.ư

Mọi người chỉ giúp em phần đọc hiểu này với ạ ☹️ Người ta thường nói đến việc chinh phục các đỉnh cao mà không mấy ai nghĩ đến việc khai phá những con đường. … Khi đạt đến đỉnh cao, cảm giác vinh quang thường ùa đến cùng những lời ca ngợi. Nhưng khi khai phá những con đường mới, người mở đường thường sống trong sự cô đơn và hiểu lầm, đôi khi dè bỉu của người...
Đọc tiếp

Mọi người chỉ giúp em phần đọc hiểu này với ạ ☹️
Người ta thường nói đến việc chinh phục các đỉnh cao mà không mấy ai nghĩ đến việc khai phá những con đường.

Khi đạt đến đỉnh cao, cảm giác vinh quang thường ùa đến cùng những lời ca ngợi. Nhưng khi khai phá những con đường mới, người mở đường thường sống trong sự cô đơn và hiểu lầm, đôi khi dè bỉu của người đời, vì cái mới, cái khác thường bao giờ cũng là cái khó chấp nhận đối với số đông.

Ngày xưa Lỗ Tấn viết: "Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực, trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường mà thôi". Biết bao thế hệ đã tin như thế. Những con đường có được do người đi mãi mà thành.

Nhưng bạn ơi, tôi mong bạn khoan vội tin như thế. Những con đường có được không chỉ do người đi mãi mà thành. Những con đường có được còn là do người khai phá..

Con đường do bàn tay mình khai phá, bàn chân mình dẫn bước là con đường của tự do, quí giá, tinh khôi. Những con đường của tư duy. Những con đường nối liền quá khứ-hiện tại-tương lai sẽ đưa bạn, đưa tôi, đưa đất nước bước tới những chân trời mới

(Theo SVVN - https://www.tienphong.vn/gioi-tre/kham-pha-nhung-con-duong

- Giáp Văn Dương, ĐH Liverpool- Anh)

Câu 1. Theo tác giả, những con đường có được do đâu mà thành?

Câu 2. Chỉ ra biện pháp nghệ thuật chủ yếu được sử dụng trong đoạn văn: “Nhưng bạn ơi, tôi mong bạn khoan vội tin như thế. Những con đường có được không chỉ do người đi mãi mà thành. Những con đường có được còn là do người khai phá”.

Câu 3. Việc tác giả trích dẫn câu nói của Lỗ Tấn có tác dụng như thế nào?

Câu 4. Anh/chị có cho rằng việc khai phá những con đường mới đồng nghĩa với sự liều lĩnh, mạo hiểm không? Vì sao? (Trình bày khoảng 8 - 10 dòng)

0
Đề 1: ĐỌC HIỂU Chẳng ai muốn làm hành khất Tội trời đày ở nhân gian Con không được cười giễu họ Dù họ hôi hám úa tàn Nhà mình sát đường, họ đến Có cho thì có là bao Con không bao giờ được hỏi Quê hương họ ở nơi nào Câu1: Văn bản thuộc loại thể thơ nào? Câu 2:Thái độ người cha được thể hiện ra sao qua 2 cụm từ “ không được” và “ không bao giờ...
Đọc tiếp

Đề 1: ĐỌC HIỂU

Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không được cười giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn

Nhà mình sát đường, họ đến

Có cho thì có là bao

Con không bao giờ được hỏi

Quê hương họ ở nơi nào

Câu1: Văn bản thuộc loại thể thơ nào?

Câu 2:Thái độ người cha được thể hiện ra sao qua 2 cụm từ “ không được” và “ không bao giờ được”

Câu3: Người cha nhắc nhở con điều gì qua 2 đoạn thơ

Đề 2: ĐỌC HIỂU

Giáo dục tức là giải phóng. Nó mở ra cánh cửa dẫn đến hòa bình, công bằng và công lí(2). Những người nắm giữ chìa khóa của cánh cửa này – các thầy, cô giáo, các bậc cha mẹ, đặc biệt là những người mẹ - gánh một trách nhiệm vô cùng quan trọng, bởi vì cái thế giới mà chúng ta để lại cho các thế hệ mai sau sẽ tùy thuộc vào những trẻ em mà chúng ta để lại cho thế giới ấy

Câu hỏi:

  • Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn
  • Câu 2: câu 1 và câu 2 được liên kết với nhau bơi phép liên kết nào
  • Câu 3: Theo tác giả “ ngườii nắm giữ chìa khoá của tương lai “ là ai ? Chìa khoá ấy là gì?
  • Câu 4: chỉ ra thành phần biệt lập có mặt trong đoạn văn và nêu tên gọi của nó
  • Câu 5: Thái độ của tác giả thể hiện trong đoạn văn
2

ĐỀ 1:

Câu 1 :Văn bản thuộc thể thơ 6 chữ.

Câu 2 : Ở đây, qua hai cụm từ "không được" và "không bao giờ được" cho thấy thái độ của người cha ở đây rất nghiêm khắc, dứt khoát.

Câu 3 : Người cha nhắc nhở con : "Biết tôn trọng lẫn nhau, yêu thương nhau chân thành, nhất là với những người có hoàn cảnh kém may mắn, bởi họ rất dễ bị tổn thương".

ĐỀ 2:

Câu 1 : Phương thức biểu đạt chính của đoạn là nghị luận.

Câu 2 : Từ ngữ thực hiện phép liên kết giữa câu 1 và câu 2 của đoạn văn trên được thế hiện ở từ “nó” (chủ ngữ của câu 2). Đó là phép thế.

Câu 3 : Người nắm giữ chìa khóa tương lai là : các thầy, cô giáo, các bậc cha mẹ, đặc biệt là những người mẹ. Chìa khóa ấy là cánh cửa mở ra hào bình, bình đẳng.

Câu 4 : Thành phần biệt lập trong đoạn văn trên : các thầy, cô giáo, các bậc cha mẹ, đặc biệt là những người mẹ. Tên gọi của thành phần biệt lập đó là thành phần phụ chú.

Câu 5 : Thái độ của tác giả thể hiện trong đoạn là một thái độ trân trong, biết ôn những người nắm giữ "chìa khóa" và bằng giọng văn nhẹ nhàng, tác giả đã nhắc nhở các thế hệ sau này cần nhớ ơn những người giữ "chìa khóa" vì đã mở ra một cuộc sống hòa bình, bình đẳng như ngày nay.

21 tháng 8 2016

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bàinêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/ đoạn văn, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tình huống bất thường nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận;kết h ợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
– Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, chuyên viết về cuộc sống và con người nông thôn.
– Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, tác giả đã sáng tạo được tình huống “nhặt vợ” độc đáo.
* Nêu nội dung ý kiến: khẳng định thành công của tác giả trong việc xây dựng tình huống độc đáo (tính chất bất thường), giàu ý nghĩa nhân bản (thể hiện khát vọng bình thường của con người).

* Phân tích tình huống:
– Nêu tình huống: Tràng – một nông dân ngụ cư nghèo khổ, ngờ nghệch, xấu xí, đang ế vợ bỗng nhiên “nhặt” được vợ giữa nạn đói khủng khiếp.
– Tính chất bất thường: giữa nạn đói kinh hoàng, khi người ta chỉ nghĩ đến chuyệnsống –  chết thì Tràng lại lấy vợ; một người tưởng như không thể lấy được vợ lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng; Tràng “nhờ” nạn đói mới có được vợ còn người đànbà vì đói khát mà theo không một ngư ời đàn ông xa lạ; việc Tràng có vợ khiến cho mọi
người ngạc nhiên, không biết nên buồn hay vui, nên mừng hay lo;…

– Khát vọng bình thường mà chính đáng của con người: khát vọng được sống (người đàn bà đói khát theo không về làm vợ Tràng); khát vọng yêu thương, khát vọng về mái ấm gia đình (suy nghĩ và hành động của các nhân vật đều hướng tới vun đắp hạnh phúc gia đình); khát vọng về tương lai tươi sáng (bà cụ Tứ động viên con, người vợ nhặt nhắc đến chuyện phá kho thóc, Tràng nghĩ đến lá cờ đỏ sao vàng,…);…

* Bình luận:
– Thí sinh cần đánh giá mức độ hợp lí của ý kiến, có thể theo hướng: ý kiến xác đáng vì đã chỉ ra nét độc đáo và làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của tình huống truyện trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.
– Có thể xem ý kiến là một định hướng cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm Vợnhặt, đồng thời là một gợi mở cho độc giả về cách thức tiếp cận truyện ngắn theo đặc trưng thể loại.

d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.