Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Bố cục bài văn tế thường có các phần:
- Lung khởi: cảm tưởng khái quát về người chết
- Thích thực: hồi tưởng công đức của người chết
- Ai vãn: than tiếc người chết
- Kết: nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn của người chết.
Đáp án cần chọn là: A

- Phần 1: Lung khởi (Từ đầu đến ...tiếng vang như mõ)
→ Cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
- Phần 2: Thích thực (Tiếp theo đến ...tàu đồng súng nổ)
→ Hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa sĩ.
- Phần 3: Ai vãn (Tiếp theo đến ...cơn bóng xế dật dờ trước ngõ)
→ Lời thương tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.
- Phần 4: Kết (Còn lại)
→ Tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.

Chủ đề: Tinh thần thơ Mới
- Mục đích nghị luận: phản ánh tinh thần thơ Mới, sự cách tân về thơ, từ “cái ta” chuyển sang “cái tôi” đầy màu sắc cá nhân
+ Phần mở đầu: “Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: Tinh thần Thơ mới
Phần thân:
- Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ Mới, xác định cách tiếp cận đúng đắn cần phải có
- Biểu hiện cái “tôi” trong cá nhân Thơ Mới, “cái tôi” buồn, bế tắc nhưng khao khát với cuộc sống, với đất nước, con người
- Tình yêu, lòng say mê với tiếng mẹ đẻ
KB: Nâng cao tinh thần thơ Mới
Thơ mới không đề cập đến đấu tranh cách mạng, trong thơ mới có nỗi buồn của cả một lớp người trong xã hội. Bao trùm thơ mới là nỗi ủy mị. Như nỗi buồn trong nhớ rừng của Thế Lữ, nỗi buồn trong Tràng giang là tình yêu quê hương đất nước.
Nhược điểm của Thơ mới là thiếu khí phách cách mạng, nhưng đây là phong trào thơ với nhiều yếu tố tích cực: lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu sự sống... Tựu chúng lại đều yêu tiếng Việt- biểu hiện tình yêu đất nước.
Thơ Mới đóng góp nhiều về nghệ thuật thơ, đổi mới sự biểu hiện cảm xúc, cảm xúc sâu thẳm về cuộc đời, con người, thiên nhiên, đất nước. Thơ mới trau dồi tiếng Việt làm cho ngôn ngữ thơ Việt Nam uyển chuyển, biến đổi mọi cảm xúc. Có Thơ mới thì không có ngôn ngữ thơ vừa cô đọng, vừa súc tích. Có thể nói Thơ mới là một thời đại dồi dào, sức sáng tạo

- Bố cục 2 phần
+ Phần 1: “Đồ gốm sứ nhỏ dùng trong nhà ... sinh ra cái bát chiết yêu duyên dáng thế kỉ XVIII – XIX”: Đồ gốm sứ nhỏ dùng trong nhà có lịch sử phát triển liên tục, điển hình là trường hợp của cái bát ăn cơm.
+ Phần 2: Còn lại: Đặc điểm của đồ gốm gia dụng thời Lý – Trần.
- Mối quan hệ giữa bố cục và nhan đề của VB: Bố cục cho thấy nội dung VB phù hợp với nhan đề và bố cục thể hiện rõ sự chi tiết hóa chủ đề được gợi ra từ nhan đề ấy.

Bài văn tế mang đậm chất trữ tình, với những hình ảnh và giọng điệu xót thương, ca ngợi những người nghĩa sĩ nông dân. Thủ pháp tương phản và cấu trúc của thể văn biền ngẫu đã tạo cho bài văn tế một sự trang trọng khi soi chiếu cuộc đời của những người nông dân Cần Giuộc trước đây với những nghĩa sĩ Cần Giuộc bây giờ. Ngôn ngữ vừa trân trọng, vừa dân dã, gần gũi mang đậm sắc thái Nam Bộ.

Văn bản 1: Một thứ quà của lúa non: Cốm
Bài tùy bút “Một thứ quà của lúa non: Cốm” đã thể hiện được nét đặc sắc của tác giả Thạch Lam là thiên về cảm giác tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Đây cũng là đặc điểm chung trong các sáng tác của Thạch lam nói chung.
Khi nói về sự hình thành của hạt cốm, tác giả đã viết một đoạn văn miêu tả thấm đượm cảm xúc, thông qua những từ ngữ chọn lọc tinh tế, những câu văn có nhịp điệu: Khi đi qua cánh đồng xanh…mùi thơm của bông lúa non; Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ; Giọt sữa dần dần đọng lại; Rồi một loạt cách chế biến để làm ra tứ cốm dẻo ấy. ta có thể thấy Thạch Lam đã rất cẩn trọng trong chọn lọc từ ngữ miêu tả, câu văn thì nhiều nhạc điệu để thể hiện được luận điểm: Cốm là thứ quà đặc biệt của lúa non, của bàn tay khéo léo.
Để có hạt cốm cần đến sự khéo léo của con người. Vì vậy sau đoạn mở đầu tác giả đã nói đến nghề làm cốm nổi tiếng ở làng Vòng. Tác giả không đi vào miêu tả tỉ mỉ kĩ thuật hay công việc làm cốm mà cho biết đó là một nghệ thuật với một loạt cách chế biến, những cách thức truyền từ đời này sang đời khác.
Văn bản 2: Sài Gòn tôi yêu
Trong bài tùy bút Sài Gòn tôi yêu, tác giả Minh Hương đã thể hiện tình yêu mãnh liệt đối với Sài Gòn trong sự cảm nhận về phong cách của người Sài Gòn. Trước hết, tác giả lí giải nguyên nhân Sài Gòn là nơi hội tụ của người tứ phương: bởi Sài Gòn hội tụ người của bốn phương những hòa hợp, không phân biệt, qua đó thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người Sài Gòn, đó chính là sự cởi mở, đoàn kết.
Phong cách của người Sài Gòn lại được tác giả Minh Hương thể hiện qua chi tiết những cô gái yểu điệu, thiết tha, e ngại, ngượng nghịu như vầng trăng mới ló, cười chum chím, sáng rỡ, hóm hỉnh, nhí nhảnh. Qua miêu tả của tác giả ta thấy được phong cách của người Sài Gòn, đó chính là sự tinh tế, chân thành, cởi mở, bộc trực, vẻ đẹp tự nhiên, dễ gần mà dũng cảm cao đẹp.
Qua đó, người đọc thấy được Sài Gòn là một đô thị sầm uất, đông đúc, con người sống với nhau bằng tình yêu thương và sự đoàn kết, gắn bó. Đồng thời thể hiện được tình cảm yêu thương, trân trọng của tác giả Minh Hương đối với vùng đất này.

Câu 1. (2,0 điểm)
Đoạn văn khoảng 200 chữ:
Đọc Những dặm đường xuân của Băng Sơn, em cảm nhận được một bức tranh mùa xuân thật đẹp và giàu sức gợi. Trên những nẻo đường, sắc xuân lan tỏa từ cành đào phai, cành mai vàng đến những gánh hoa, gánh quất rực rỡ nối nhau về phố thị. Mùa xuân hiện ra không chỉ trong thiên nhiên mà còn trong gương mặt con người, trong tiếng rao hàng, trong nhịp sống rộn ràng của phố phường. Ẩn sau đó là tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho quê hương, đất nước, cho mùa xuân truyền thống của dân tộc. Bằng những chi tiết giản dị, gần gũi, tác giả đã khắc họa được vẻ đẹp thanh khiết, trong lành và tràn đầy sức sống của mùa xuân Việt Nam. Đọc văn bản, em thấy lòng mình thêm rạo rực, bâng khuâng; cũng cảm nhận rõ hơn hương vị Tết cổ truyền – một nét đẹp văn hóa ngàn đời mà ai đi xa cũng nhớ. Qua đó, em nhận ra cần biết trân trọng những giá trị giản dị, quen thuộc quanh mình, bởi chính chúng làm nên cội nguồn hạnh phúc và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người.
Câu 2. (4,0 điểm)
Bài văn khoảng 600 chữ:
Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên dấu ấn không thể hòa lẫn trong cộng đồng nhân loại. Với Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc đã kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử, thể hiện trong tiếng nói, phong tục, lễ hội, trang phục, ẩm thực, kiến trúc và trong cả tâm hồn, tính cách con người. Giữ gìn những nét đẹp ấy là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay.
Trước hết, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc là giữ lấy cội nguồn, giữ lấy căn tính để không bị hòa tan trong dòng chảy hội nhập. Trong thời đại toàn cầu hóa, văn hóa ngoại lai du nhập mạnh mẽ, dễ khiến một bộ phận giới trẻ chạy theo xu hướng hiện đại mà quên mất gốc rễ truyền thống. Nếu không biết trân trọng, gìn giữ, chúng ta có thể đánh mất bản sắc, mất đi điểm tựa tinh thần quan trọng nhất.
Thế hệ trẻ cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ và phát huy những giá trị ấy. Trách nhiệm ấy thể hiện trước hết ở sự trân trọng, tự hào về những di sản mà cha ông để lại: từ tiếng Việt trong sáng đến những câu ca dao, dân ca; từ tà áo dài thướt tha đến những phong tục ngày Tết. Đồng thời, thế hệ trẻ cũng cần chủ động học hỏi, tìm hiểu để am hiểu sâu sắc hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Khi đã có tri thức, chúng ta mới có thể truyền bá, giới thiệu và lan tỏa những nét đẹp ấy đến bạn bè quốc tế.
Không chỉ dừng ở ý thức, trách nhiệm còn cần thể hiện bằng hành động thiết thực. Đó có thể là việc tham gia bảo vệ di tích lịch sử, giữ gìn phong tục tốt đẹp, ứng xử văn minh nơi công cộng, hoặc đơn giản là biết nói lời hay, giữ gìn tiếng mẹ đẻ trong sáng. Trong thời đại công nghệ số, trách nhiệm ấy còn là việc sử dụng mạng xã hội để quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới một cách đúng đắn, sáng tạo.
Tất nhiên, giữ gìn bản sắc không có nghĩa là khước từ cái mới. Thế hệ trẻ cần biết dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm bản sắc dân tộc, chứ không để nó phai nhạt.
Tóm lại, gìn giữ những nét đẹp bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm thiêng liêng của thế hệ trẻ. Thực hiện tốt trách nhiệm ấy, chúng ta không chỉ bảo vệ cội nguồn dân tộc mà còn góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam giàu bản sắc trong mắt bạn bè thế giới. Và quan trọng hơn, chính chúng ta – những người trẻ – sẽ tìm thấy niềm tự hào, sự tự tin khi bước vào đời bằng đôi cánh của truyền thống và hiện đại.

+ Văn hóa dân tộc phong phú, đặc sắc.
+ Cần bảo tồn, lữu giữ và phát huy.

Bố cục: 3 phần
- Phần 1: Từ đầu đến “lá cành”: Dấu hiệu và trạng thái bất ngờ của tác giả khi thiên nhiên giao mùa.
- Phần 2: Tiếp đến “bước chân người”: Đặc điểm thiên nhiên khi giao mùa.
- Phần 3: Còn lại: Tình cảm của tác giả.
=> Từ bố cục, ta thấy được văn bản đã thể hiện rõ yếu tố tự sự, biểu cảm trong văn bản. Qua đó, ta thấy được tình cảm, tâm tư, những suy nghĩ của nhà văn về Hà Nội.
Bố cục:
- Phần 1 - Lung khởi (Hỡi ôi ... tiếng vang như mõ): Khái quát bối cảnh thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết của người nghĩa binh nông dân
- Phần 2 - Thích thực (tiếp đến tàu đồng súng nổ): miêu tả hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ qua các giai đoạn lao động vất vả tới lúc thành dũng sĩ đánh giặc, lập công
- Phần 3 - Ai vãn (tiếp đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ): Niềm đau xót, tiếc thương, cảm phục của tác giả và nhân dân với người nghĩa sĩ
- Phần 4 - Kết (còn lại) ngợi ca linh hồn bất tử của nghĩa sĩ