Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Mô-li-e (1622 – 1673) sinh trưởng ở Pa-ri, trong một gia đình buôn bán giàu có. Cha là một thương gia nổi tiếng, sau được phong một chức quan nhỏ hầu cận nhà vua. Người cha muốn con trai kế tục chức vị của mình nhưng Mô-li-e từ chối và hăm hở bước vào lĩnh vực nghệ thuật sân khấu. Sau này, ông trở thành nhà biên kịch lớn của châu Âu thế kỉ XVII và là người sáng lập ra nền hài kịch cổ điển Pháp.
Trưởng giả học làm sang là một vở hài kịch năm hồi, có xen những màn ca múa phụ họa nên gọi là vũ khúc hài kịch. Nội dung tóm tắt như sau:
Giuốc-đanh tuổi ngoài bốn mươi, thuộc tầng lớp thị dân phong lưu, giàu cổ. Nhờ bố mẹ ngày trước làm nghề buôn len dạ tích luỹ được khá nhiều tiền nên giờ đây, Giuốc-đanh muốn trở thành quý tộc để được bước chân vào xã hội thượng lưu. Bắt chước những người cao sang, lão thuê thầy về dạy cho mình đủ các môn như âm nhạc, kiếm thuật, triết lí và cả cách ăn mặc, nói năng… Giuốc-đanh mù quáng và nhẹ dạ đã bị lừa bịp một cách dễ dàng bởi các ông thầy rởm, bác phó may vụng về nhưng ba hoa, chú thợ phụ lẻo mép và cả gã bá tước sa sút Đô-răng-tơ. Vì muốn trở thành quý tộc nên Giuốc-đanh đã nhờ Đô-răng-tơ mai mối làm quen với bà hầu tước Đô-ri-men (chính là tình nhân của gã). Giuốc-đành từ chối gả con gái là Luy-xin cho Clê-ông chỉ vì chàng không phải dòng dõi quý tộc. Cuối cùng, nhờ mưu mẹo của nữ đầy tớ Cô-vi-en, Clê-ông cải trang làm hoàng tử Thổ Nhĩ Kì đến cầu hôn Luy-xin và đã được Giuốc-đanh vui vẻ chấp thuận.
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục là lớp kịch kết thúc hồi Il của vở kịch Trưởng giả học làm sang. Có thể tóm tắt nội dung lớp kịch này như sau:
Giuốc-đanh dốt nát, quê kệch lại muốn học đòi làm sang nên đã bị nhiều kẻ lợi dụng moi tiền, cảnh Giuốc-đanh mặc lễ phục là một biểu hiện của thói học đòi lối ăn mặc sang trọng của quý tộc. Lão ta đã bị bọn thợ may lợi dụng. Tác giả đã khắc họa sinh động, tài tình, làm nổi bật tính cách lố lăng của một gã trọc phú thừa tiền rửng mỡ. Chân dung hài hước của Giuốc-đanh đã gây ra những trận cười sảng khoái cho khán giả. Màn kịch thể hiện thái độ châm biếm, đả kích và phê phán mạnh mẽ của Mô-li-e đối với giai cấp tư sản hãnh tiến đương thời.
Trong lớp kịch này, Mô-li-e sử dụng hai kiểu ngôn ngữ là ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật và ngôn ngữ kể chuyện của tác giả.
Ngôn ngữ trực tiếp có khi là lời đối thoại giữa các nhân vật với nhau. Ví dụ như Giuốc-đanh đối đáp với bác phó may về đôi bít tất lụa hay về đôi giày quá chật, về chiếc áo may ngược hoa… Cũng có khỉ là lời độc thoại như đoạn Giuốc-đanh tự nói với mình. Đoạn kể về cảnh bác phó may và bọn thợ phụ mặc lễ phục cho Giuốc-đanh là ngôn ngữ kể chuyện. Trong kịch nói thì đối thoại là ngôn ngữ chính, qua đó làm nổi bật tính cách nhân vật.
Màn kịch có hai cảnh: trước và sau khi Giuốc-đanh mặc lễ phục.
Cảnh một diễn ra tại phòng khách nhà Giuốc-đanh với ba nhân vật: Giuốc- đanh, bác phó may và một tay thợ phụ vừa mang bộ lễ phục đến nhà. Tính cách học đòi làm sang của Giuốc-đanh bộc lộ rất rõ qua cuộc đối thoại giữa lão ta và bác phó may về bộ lễ phục, đôi bít tất, đôi giày, bộ tóc giả và lông đính mũ. Người nghe bật cười trước những lời nói, sự việc, hành động trái ngược giữa bác phó may ranh ma và lão Giuốc-đanh khờ khạo.
Khi Giuốc-đanh tỏ ý sốt ruột vì bộ lễ phục may mãi chưa xong và cằn nhằn: Tôi sắp phát khùng lên vì bác đấy thì bác phó may láu cá lại viện cớ rằng vì bộ lễ phục này quá cầu kì nên vừa khó làm, vừa tốn công: Tôi không làm sao đến sớm hơn được, ấy là tôi đã cho hai chục chú thợ phụ xúm lại làm bộ lễ phục của ngài đấy.
Giuốc-đanh than phiền là đôi bít tất lụa bé quá, lão phải khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được và đã đứt mất hai mắt rồi thì bác phó may lại lí sự cù cưa theo kiểu thợ may, thợ giày rằng rồi nó giãn ra thì lại rộng quá ấy chứ. Lúc này, Giuốc-đanh vẫn tỉnh táo. Biết bác phó may cãi bừa nên lão mới bóng gió rằng: nếu các mắt của bít tất cứ đứt mãi thì sẽ rộng thật, nghĩa là sẽ rách toang không dùng được nữa.
Giuốc-đanh cự bác phó may về đôi giày chật cứng làm cho lão đau chân ghê gớm, bác thợ may khăng khăng phủ nhận: Không, đôi giày không làm ngài đau đâu mà. Giuốc-đanh quả quyết: Tôi, tôi bảo là nó làm tôi đau. Bác phó càng cãi hăng, lời lẽ thật khôi hài: Ngài cứ tưởng tượng ra thế… Giuốc-đanh cố dồn bác phó may vào chân tường: Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!
Người xem đều thấy rõ Giuốc-đanh rất tỉnh táo và lời nói sắc bén của ông ta dường như đã làm cho bác phó may đuối lí.
Qua cuộc đối thoại này, chúng ta thấy cái đúng của Giuốc-đanh là ông ta lấy chính đôi chân của mình làm thước đo nên vẫn phân biệt được đúng sai (giày, tất đều quá chật làm cho chân bị đau). Tuy vậy, Giuốc-đanh lại dễ bị người khác điều khiển, chi phối vì không có lập trường vững vàng. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó. Đương nhiên là lão Giuốc-đanh làm sao thắng được miệng lưỡi dẻo quẹo của bác phó may.
Để gỡ thế bí, bác phó liền giới thiệu về bộ lễ phục vừa may xong với Giuốc- đanh. Đây là cách đánh trống lảng, tránh né thật tài tình: Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác. Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy.
Nhưng sự khoác lác của bác phó không lừa nổi Giuốc-đanh khi lão ta phát hiện ra chuyện động trời: Thế này là thế nào? Bác may hoa ngược mất rồi!
Thợ may nào mà chẳng hiểu được điều tối thiểu là vải hoa thì phải may cho hoa hướng lên trên. Nhưng phản ứng của Giuốc-đanh cũng chỉ dừng đến đấy. Bác phó may ranh mãnh chống chế: Nào ngài có bảo là ngài muốn may hoa xuôi đâu!
Giuốc-đanh không chấp nhận điều vô lí ấy và vặn lại:
– Lại cần phải bảo may hoa xuôi ư?
Câu chống chế của bác phó may làm cho Giuốc-đanh nửa tin nửa ngờ. Bác phó tinh ý nhận thấy sự dao động của lão nên tấn công tiếp:
– Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả.
Để được làm “quý tộc”, quan trọng nhất là phải có bộ lễ phục sang trọng. Thế mà bác phó lại may, lễ phục cho Giuốc-đanh bằng vải hoa, tệ hơn nữa là may hoa ngược. Giuốc-đanh bực mình lắm nhưng chỉ cần nghe bác phó khẳng định như đinh đóng cột rằng những người quý phái đều mặc như thế này cả thì vội vàng bằng lòng ngay vì đang khoái làm… quý tộc. Cho nên, lão chỉ hỏi lại bác phó may tinh khôn bằng giọng của kẻ ngờ nghệch đáng thượng:
– Những người quý phái mặc áo ngược hoa ư?
Người xem nhận ra lí sự của bác phó may rõ ràng là vụng chèo khéo chống, cố tình lừa bịp Giuốc-đanh. Bác phó may thấy mình đã thắng liền nói thêm một câu tỏ vẻ hờn dỗi là nếu Giuốc-danh không Ưng ý thì bác sẽ đổi lại chiều hoa cho đúng. Giuốc-đanh vì nôn nóng muốn làm quý tộc nên đầu óc bỗng mất sáng suốt, đúng hóa thành sai, rối tinh rối mù, vội khen rối rít:
– Ồ! Thế thì bộ áo này mạy được đấy.
– Nếu ngài muốn thì tôi xin may hoa xuôi lại thôi mà.
Giuốc-danh hoảng hốt, xua tay, lắc đầu lia lịa:
– Không, không.
Bác phó tiếp tục vờn Giuốc-đanh như mèo vờn chuột:
– Xin ngài cứ việc bảo.
Đến dây thì Giuốc-đanh đã sa bẫy một cách nhẹ nhàng mà không biết và lại càng tỏ vẻ cương quyết:
– Tôi đã bảo không mà. Bác may thế này được rồi. Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?
– Còn phải nói! Tôi đố họa sĩ nào lấy bút mà vẽ hầu ngài bộ áo vừa khít hơn được. Ở nhà tôi có một chú thợ phụ may quần cộc thì tài nhất thiên hạ; và một chú khác là anh hùng của thời đại về may áo chẽn đấy.
– Bộ tóc giả và lông đính mũ có được chững chạc không?
– Chững chạc tuốt!
Sự đắc ý của Giuốc-đanh lên tới tột độ khi tin rằng mình đã có được bộ lễ phục đúng mốt quý tộc (!) Điều ấy làm cho lão ta sẵn sàng bỏ qua những chuyện vặt vãnh trước đó. Đến bộ tóc giả và lông đính mũ thì lão cũng chỉ hỏi qua loa lấy lệ.
Đoạn này có kịch tính rất cao. Bác phó may đang ở thế bị động (bị Giuốc- đanh phát hiện là may ngược hoa), đột ngột chuyển sang thế chủ động, tấn công đối phương bằng hai đề nghị liên tiếp: Nếu ngài muốn thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà và Xin ngài cứ việc bảo. Thế là Giuốc-đanh sợ, cứ lùi mãi. Lão ta sợ là phải vì nếu bác phó nổi cơn tự ái may hoa lại cho đúng hướng thì còn gì là quý tộc nữa? Cho nên lão vội hỏi bác phó may rằng liệu bộ lễ phục lão mặc có vừa vặn không.
Điều đáng buồn cười thứ nhất là lễ phục của giai cấp quý tộc châu Âu trước kia thường được may bằng loại vải tốt, đắt tiền, màu đen. Còn bác phó lại may lễ phục cho Giuốc-đanh bằng vải hoa, thứ vải chỉ để dùng may váy áo cho phụ nữ hoặc trẻ con.
Điều đáng buồn cười thứ hai là vải hoa thì đương nhiên phải may bông hoa hướng lên trên, nhưng bác phó chẳng biết là do vụng hay do cố tình biến Giuốc-đanh thành trò cười cho thiên hạ nên đã may hoa chúc xuống phía dưới. Giuốc-đanh phát hiện ra điều đó nhưng chỉ cần bác phó may bịa ra chuyện những người quý phải đều mặc như thế này cả là lão chấp nhận ngay.
Sau đó, Giuốc-đanh tiếp tục phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình khi may bộ lễ phục trước nên lấy lại thế chủ động và trách bác ta. Bác phó may chống đỡ khéo léo: Chẳng là thứ hàng đẹp quá nên tôi đã gạn lại một áo để mặc và gỡ thế bí bằng cách hỏi Giuốc-đanh có muốn mặc thử bộ lễ phục mới không. Bác phó may tinh quái láu lỉnh đã đánh trúng tâm lí Giuốc-đanh đang nôn nóng muốn thành “quý tộc”để phớt lờ chuyện ăn bớt vải của mình:
– Mời ngài mặc thử bộ lễ phục chứ ạ.
– Ừ, đưa đây tôi .
– Khoan đã, không thể mặc như thế được. Thứ áo này phải mặc đúng thể thức, tôi có đem người đến để mặc hầu ngài theo nhịp điệu, ơ này! Vào đây, các chú. Các chú hãy mặc bộ lễ phục này hầu ngài theo cách thức mặc cho...

+ Điệp từ : " Nhớ "
+ Kiểu : Điệp từ cách quãng
=> TD : Nhấn mạnh nỗi nhớ
Bài làm
Trong câu: " Phượng xui ra ta nhớ cái gì đâu. Nhớ người sắp xa có đứng trước mặt. Nhớ một trưa hè gà gáy khan... . Nhớ một hành xưa son uể oải "
+ Tác giả đã sử dụng điệp ngữ cách quãng.
+Tác dụng làm nhấn mạnh từ " nhớ " trong câu văn. Tác giả như muốn nhắn nhủ nỗi buồn của tác giả với người đọc, những nỗi buồn xa vắng và nỗi niềm cô đơn, bâng khuâng nhung nhớ, dỗi hờn.
# Chúc bạn học tốt #

a ) Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu !
b) Tác phẩm : Khi con tu hú
Tác giả : Tố Hữu
c ) Tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ là âm thanh của tự do bên ngoài thúc giục đến da diết, khắc khoải....
a) Chép tiếp các câu thơ :
'' Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu! ''
b) Khổ thơ vừa chép nằm trong tác phẩm Khi con tú hú , Của Tố Hữu.
c) Ý nghĩa:Tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ là âm thanh của tự do bên ngoài thúc giục đến da diết, khắc khoải......
d) Trở lại với thực tại đang bị giam hãm, chỉ với bốn câu thơ cuối bài, tác giả đã thể hiện tâm trạng bức xúc, sự phẫn uất của mình. Trước hết là khát vọng muốn bứt phá tù ngục, muốn “đạp tan phòng”. Mùa hè trở thành đối tượng vẫy gọi, đối tượng để nhà thơ thổ lộ tâm tình. Cảm giác ngột ngạt trong cảnh tù hãm lên đến tột đỉnh khi nhà thơ thốt lên: “Ngột làm sao, chết uất thôi”. Cái ngột ngạt ở đây không chỉ là giới hạn chật hẹp của phòng giam, mà là sự phẫn uất của tác giả và niềm khao khát tự do, khao khát trở về với cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi. Các từ cảm thán “ôi”, “thôi”, “làm sao”,... càng nhấn mạnh cảm giác ngột ngạt đó. Tiếng “Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!” càng như thôi thúc vẫy gọi. Tiếng chim tu hú báo hiệu xuân hết hè sang, báo hiệu sự chuyển đổi của thời gian, mà đối với người chiến sĩ cộng sản, vấn đề không phải chỉ là ở chỗ bị bắt bớ tù đày khổ ải, mà vấn đề là ở chỗ cách mạng đang bước vào giai đoạn quyết liệt, thời cơ của cách mạng giải phóng dân tộc đã tới gần. Do đó, thời gian hành động đòi hỏi rất cấp bách, trong khi ấy, người chiến sĩ lại đang bị giam hãm trong nhà lao. Cách ngắt nhịp 6/2 hay 3/3 cũng nhấn mạnh trạng thái tinh thần bức xúc, bực bội ấy (“Mà chân muốn đạp tan phòng/ hè ôi”, “Ngột làm sao/ chết uất thôi”). Tiếng chim tu hú một mặt vừa báo hiệu sự chuyển dịch của thời gian, mặt khác vừa như thúc bách, giục giã người thanh niên cách mạng trẻ tuổi đang bị giam hãm trong nhà lao đế quốc phải nhanh chóng thoát ra ngoài để trở về với phong trào, để cùng với nhân dân đấu tranh cho tự do, độc lập. Nếu tiếng chim ở phần đầu bài thơ là tiếng chim thông báo chuyển mùa thì tiếng chim ở cuôì bài là tiếng chim nhắc nhở, thôi thúc. Tiếng chim một mặt cho thấy dấu hiệu dịch chuyển thời gian, mặt khác lại cho thấy thời gian không đợi không chờ. Tiếng chim ấy đối với người tù cộng sản cũng là tiếng gọi của tự do.

1. Hoàn cảnh sáng tác
- Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ nhưng Bác vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.
2. Thể thơ
- Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
Bà làm
Bài thơ " Tức cảnh pác pó " được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật.
Vì thất ngôn là 7 chữ. Tứ tuyệt là 4 câu.
Nên thất ngôn tứ tuyệt là thơ 7 chữ 4 câu.

TL:
mọi ng sai đề r
jack sao lại trợ từ cop mạng đúng ko mk bt màk!
^HT^
Thật là dễ chịu!(1) Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa ; bàn tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. (2) Chà !(3) Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!(4)
→ Có tất cả 44 câu.
Từ tượng thanh: vun vút.
ĐoạnĐoạn vănvăn
→ Tác phẩm trên là "Cô bé bán diêm" của tác giả An-đéc-xen, viết về hoàn cảnh đáng thương của một cô bé bán diêm. Cô bé mất những người thân yêu và phải sống cùng người cha độc ác, nghiện ngập hay đánh em, em bị bạo hành mà còn mất đi quyền được học, em phải bán diêm mua rượu cho hắn. Cuối cùng, vào ngày giao thừa, mọi người vui vẻ nhưng em lo sợ vì không bán được bao diêm nào sẽ bị bố đánh, và em ở ngoài đường trong cái rét, cái đói. Nhưng còn tội nghiệp hơn, sau những lần quẹt diêm, mơ ước của em thì hiện thực ùa về. Em đã chết trong những cái lạnh cái đói và sự vô tâm của con người.
Chọn đáp án: A