Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tôi tên là Ngữ Văn tập một, đã lâu lắm rồi không thấy ai tìm đến tôi nên tôi cứ mãi ở cái xó cặp thế này. Hàng ngày, tôi vẫn cùng cậu chủ đi đến lớp, nhưng cậu chủ chẳng bao giờ giở tôi ra cả mà cứ coi như tôi không có ở trong cặp vậy. Ngày nào đi học về, cậu chủ của tôi cũng vứt cặp sách ném lên giường xong đi chơi đá bóng cùng bạn. Tôi buồn lắm.
Có lúc tôi còn khóc nữa. Chẳng bù cho anh Toán, anh ấy được cậu chủ bọc cẩn thận, ngày nào cũng đem ra làm bài tập. Cũng chẳng bù cho anh Vật Lý, cậu chủ thích trò đu quay nên hay đọc Vật Lý lắm. Cậu chủ giỏi môn tự nhiên nên vậy mà. Có lần tôi tức vì bị bỏ xó tôi còn cãi nhau với anh bút bi, sao anh ấy ích kỷ không cho tôi chút mực, anh ấy cứ tô tô vẽ vẽ lên vở mà lại không viết lên tôi dòng nào, một dòng anh ấy cũng không cho, tôi lại hỏi sang anh bút chì, anh ấy bảo anh ấy chỉ để vẽ thôi chứ không dùng viết vào sách.
Thật may hôm nay có bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân tới thăm trường cậu chủ tôi học. Mọi người cứ thắc mắc và chê cười môn văn là môn học thuộc chỉ dành cho con gái thôi. Tôi buồn lắm, đồng chí bộ trưởng ân cần bảo: Học ngữ văn là để hiểu về cuộc sống con người, hiểu về quê hương đất nước, từ đó tôn vinh các giá trị dân tộc, giá trị con người, học ngữ văn là để hiểu tiếng mẹ đẻ, giúp nhân dân đoàn kết bảo vệ đất nước suốt bề dầy bốn ngàn năm lịch sử... không những thế môn ngữ văn còn bồi dưỡng cho tình cảm con người, giúp con người yêu thương nhau không chỉ trong biên giới quốc gia mà còn là khắp năm châu bốn biển toàn nhân loại.
Có lẽ nhờ vậy mà cậu chủ đã lục cặp tìm tôi. Tôi thật vui vì cậu chủ đã bọc cho tôi bằng một tớ báo mới cứng, dán nhãn hẳn hoi, trên đó còn ghi tiên học lễ hậu học văn. Giờ đây tôi lúc nào cũng trong cặp cậu chủ, ngày nào cũng trên bàn cậu chủ, thật là vui!
Xin chào tất cả các bạn, như các bạn đã biết tôi là một cái giá sách, chủ nhân của tôi là một cô chủ học ở lớp 7A, trường THCS Võ Thị Sáu.
Tôi được sinh ra ở một xưởng gỗ ngoài vùng ngoại ô. Nhờ những đôi bàn tay khéo léo của các thợ mộc nên trông tôi rất đẹp. Tôi sống cùng cha mẹ, bác , cô và ông bà. Được sống trong tình yêu thương và tôi ngày càng lớn. Mẹ tôi nói với tôi:
- Con đã lớn và trưởng thành hơn đã đến lúc con nên ra ở riêng rồi.
Tôi chỉ mỉm cười. Hôm ấy, trời nắng đẹp tôi được trưng bày trong một cửa hàng nội thất rất sang trọng, tôi đã gặp một cô bé trông cô có vẻ là một người rất sáng sủa, cô đã thấy tôi và cô reo lên chắc có lẽ do cách trang trí và bộ trang phục tôi đang mạc khiến cho cô thích tôi. Tôi được đưa về gia đình cô và được chăm sóc rất cẩn thận.Tôi được đặt ở cạnh giường ngủ của cô chủ. Tôi khoác trên mình bộ áo màu vàng lấp lánh. Tôi cao 2m, được chưa làm 5 ngăn, Mỗi ngăn cô đều sắp xếp rất gọn gàng. Ngăn cô để những bài tập kiểm tra, quyển vở,...
Từ khi , tôi về nhà cô mỗi lần đi học về coo đều mang những bài kiểm tra toàn điểm 9, điểm 10 về với khuôn mặt rạng rỡ vui vẻ lúc đó trông cô chủ rất dễ thương. Tôi đưa tay ra và nói:
- Chúc mừng cô chủ, cô có thể đưa bài đây tôi sẽ giữ giùm cho cô
Nhưng rồi một hôm, tôi thấy cô về nhà với bài kiếm tra chỉ được 7 điểm , cô định xé bài kiểm tra đó đi nhưng may mà tôi đã kịp ngăn cô lại:
- Xin cô đừng xé bài kiểm tra đó đi, hãy giữ lại để lấy nó là nguồn động lực để cô tiến xa hơn nữa. Cô sẽ rút kinh nhiệm cho bài kiểm tra sau. Cô đưa đây tôi giữ cho cô.
Từ hôm ấy có bài kiểm tra nào là cô đều thức muộn để học bài, mẹ cô đã lên phòng và nhắc nhở cô ngủ sớm những cô vẫn làm bài. Chị đèn, anh quạt thức suốt đêm để giúp cô hoàn thành bài vở cho tốt. Và đến hôm sau, bài kiểm tra với điểm 10 sáng chói với khuôn mặt ngập tràn niềm vui. Hôm nào cũng thế tôi đều được lau dọn một cách sạch sẽ, sắp xếp một cách gọn gàng. Tôi đã từng hi vọng cô sẽ mãi chăm sóc tôi như bây giờ những tôi đã sai.
Hôm sinh nhật của cô, ai ai cũng đến để tặng cô những món qà và cô đã được bác tặng cho cô một chiếc điện thoại.. Từ hôm ấy cô chỉ suốt ngày điện thoại không màng tới việc học hành gì hết những điểm 9 điểm 10 của cô dần dần tụt xuống chỉ còn 5 với 6 còn tôi thì bị cô chủ bỏ bê, không chăm sóc như trước. Đồ dùng thù bừa bộn. Mỗi khi đi học về chiếc cắp sách của cô ném thẳng vào người tôi. Càng ngày tôi càng đau nhói khắp người, bụi thì bám đầy tôi bị đối sử một cách tệ bạc , ba mẹ cô đã nhắc nhở cô rất nhiều nhưng thói quen xấu của cô vẫn không thể bỏ. Tôi buồn lắm, chỉ mong cô trở về là một cô chủ ngoan ngoãn như ngày xưa., biết cố gắng nỗ lực trong học tập.
Là một chiếc giá sách không chỉ làm bạn với chủ nhân mà còn giúp chủ nhân có thêm động lực để bước trên con đường của mình, cô chủ đã từng nói với tôi, sau này cô một làm một cô giáo để đứng trên bục giảng và giảng dạy cho các em học sinh, Cơ hội chỉ đến co một lần, tôi mong cô chủ sẽ luôn học giỏi và trở lại làm một cô chủ chăm ngoan học giỏi như trước.
Các bạn đã lắng nghe tâm sự của tôi rồi đó. Các bạn hãy biết quý trọng, trận trọng giữ gìn họ hàng nhà giá sách chúng tôi để chúng tôi có thể mang lại những lợi ích đến các bạn.
Đinh Tiên Hoàng , tên húy là Đinh Bộ Lĩnh hoặc có sách gọi Đinh Hoàn , là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam.
Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.[ Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
Bài làm
Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh 968-979) Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên rất thông minh, có khí phách và có tài thao lược. Thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân. Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
# Chúc bạn học tốt #
Mở bài: giới thiệu lời tâm sự của giá sách
Thân bài: kể về sự ra đời của nó?
Nó có đặc điểm gì? Cấu tạo như thế nào ( màu sắc, kích thước, các ngăn và ô,....)
Những miền vui của giá sách
( được lau chùi, sắp xếp, chưng bày những bài tập kiểm tra, làm bạn, ý thực học tập của chủ nhân,...)
+ Nỗi buồn
Không như trước dẫn đến tủi thân, mong ước của mình về chủ nhân
c kết bài: cảm nghĩ chung của mình về chủ nhân cũng như mong ước của mình với chủ nhân
Câu 1. Nêu vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả Võ Quảng.
Câu 2:
Xuất xứ: Vượt thác trích từ chương XI của truyện Quê nội.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phú Lai – Quảng Điền – Thừa Thiên Huế, mất ngày 9/12/2002 tại Hà Nội. Ông thân sinh là một nhà nho nghèo nhưng rất yêu thơ, ham sưu tầm ca dao, tục ngữ. Từ nhỏ, Tố Hữu đã được cha dạy làm thơ theo lối cổ. Mẹ Tố Hữu là con của một nhà nho cũng rất yêu ca dao, dân ca xứ Huế và giàu lòng thương con. Tố Hữu mồ côi từ năm lên 12 tuổi, một năm sau lại phải xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Quê hương, gia đình cũng có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn thơ Tố Hữu.
Lớn lên trong cảnh “Phận nghèo, nước mất, dân nô lệ”, nhưng rất may Tố Hữu đã được Đảng giác ngộ dìu dắt. Năm 1983, ông được kết nạp Đảng. Ông đã từng bị thực dân cầm tù qua các nhà lao Thừa Thiên, Tây Nguyên… Năm 1945, ông là Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa ở Huế. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ vững những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chặt chẽ, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng “là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng”. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I – 1996.
Những chặng đường thơ của Tố Hữu,
Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cánh mạng nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
Tập “Từ ấy” (1937 – 1946): Gồm ba phần Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng, tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt động cách mạng của nhà thơ.
Máu lửa là tiếng reo náo nức của một tâm hồn được giác ngộ lý tưởng: Từ ấy… và rộn vang tiếng chim.
Nhờ đó, nhà thơ đã nhận ra được ách áp bức giai cấp, những bất công của xã hội và thân phận của con người lao khổ. Ông hướng tâm hồn mình đến cảm thông với những em bé mồ côi, lão đầy tớ, cô gái giang hồ, em bé đi ở và khơi dậy ở họ lòng căm thù, ý chí chiến đấu và niềm tin ở tương lai.
Xiềng xích là bản quyết tâm thư của người chiến sĩ cách mạng tự đặn lòng mình quyết không khuất phục trước uy lực và sự tàn bạo của kẻ thù (Trăng trối, Con cá chột nưa…) và luôn luôn tha thiết yêu đời, khát khao tự do và hành động. Đây là phần đặc sắc của tập thơ.
Giải phóng – Cách mạng tháng Tám thành công, nhà thơ say
sưa nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi, ngợi ca nền độc lập, ngây ngất trong “niềm vui bất tận” với cảm hứng dâng trào trước cuộc đổi đời vĩ đại của nhân dân, dân tộc.
Tập Việt Bắc (1947 – 1945)
Quân thù trở lại, cả dân tộc bước vào cuộc khống chiến anh dũng. Việt Bắc là “thủ đô kháng chiến”, nơi có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo toàn dân đánh giặc. Việt Bắc là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng và những con người bình dị mà anh hùng của cuộc kháng chiến (như các em thiếu nhi, các anh bộ đội, các chị phụ nữ, các bà mẹ… và trên tất cả, hình ảnh tập trung, tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc là hình ảnh Bác Hồ). Tập thơ còn ca ngợi những tình cảm điển hình của con người kháng chiến như tình yêu nước, tình yêu đồng bào, tình quân dân, tình cảm miền ngược với miền xuôi, lòng yêu thiên nhiên, kính yêu Đảng, Bác Hồ… và niềm tin tưởng ở ngày mai tươi sáng.
Vào giai đoạn cuối với chiến công Điện Biên, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng đã chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng với những cảm hửng sử thi mang hào khí thời đại, Việt Bắc là thành tựu xuất sắc nhất của văn học kháng chiến chống Pháp
Tập Gió lộng (1955-1961). Bước vào giai đoạn này cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng niềm Nam tiến tới thống nhất nước nhà:
Rộn ràng thay cảnh quê hương
Nửa công trường, nửa chiến trường xôn xao
Thơ Tố Hữu bám sát nhiệm vụ chính trị đó: Tập Gió lộng vừa thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, vừa bày tỏ tình cảm thiết tha với niềm Nam và ý chí thống nhất nước nhà, tình cảm quốc tế rộng lớn.
Trong niềm vui lớn với cuộc sống hiện tại, Tố Hữu không quên nghĩ về quá khứ để bày tỏ tình cảm biết ơn ông cha và những người đi trước mở đường. Và từ đó thấm thía ân tình cách mạng (Ba mươi năm đời ta có Đảng, Mẹ Tơm…).
Tập “Gió lộng” tiếp tục phát triển cảm hứng sử thi và khuynh hướng khái quát với một cái tôi trữ tình đa dạng hơn và một nghê thuật biểu hiện già dặn và nhuần nhị hơn.
Hai tập “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1972- 1977) là những chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm chống Mĩ quyết liệt và hào hùng của dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công, là lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng cả dân tộc “khắp thành thị thông thôn” vùng lên quyết đập “tan đầu Mĩ Ngụy”. Ra trận cũng dành hẳn một trường ca theo chân Bác để tái hiện hình ảnh Bác trên những chặng đường lịch sử trong hơn nửa thế kỉ.
Máu và hoa là những suy ngẫm của nhà thơ về những hi sinh to lớn của dân tộc (máu) để tạo nên những chiến công (hoa) chói lọi của lịch sử “Phải bao máu thấm trong lòng đất; Mới ánh hồng lên sắc tự hào”.
Thơ Tố Hữu những năm chống Mỹ cứu nước mang đậm tính chính luận và chất sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng anh hùng ca.
Từ năm 1978 lại đây, thơ Tố Hữu được tập hợp trong hai tập “Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999)
Trải qua những thăng trầm, những trải nghiệm trước cuộc đời, nhà thơ muốn bày tỏ những suy tư về cuộc sống, về lẽ đời, hướng tới những quy luật phổ quát và tìm kiếm những giá trị bền vững. Giọng thơ vì thế cũng trầm lắng, thấm đượm chất suy tưởng.
Thơ Tố Hữu là một bằng chứng sống cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và nghệ thuật. Con đường thơ của ông là con đường tìm tòi sự kết hợp hài hòa hai yếu tố, hai cội nguồn là dân tộc và cách mạng trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca. Với ngôn ngữ, thể thơ giàu tính đại chúng, dân tộc, cách mạng, thơ Tố Hữu đã truyền được cho hàng triệu độc giả niềm say mê lý tưởng cách mạng.
Với một sự nghiệp thơ phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã định hình cho mình một phong cách riêng.
"Sống là hành động, thơ cũng hành động. Với Tố Hữu thơ là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng, của sự sống " (Đặng Thai Mai). Đó là bí quyết thành công của thơ Tố Hữu và đó cùng là cội nguồn sâu xa tạo nên phong cách đặc sắc trong thơ Tố Hữu.
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, đồng thời là một chiến sĩ cách mạng, Vì vậy, đối với ông, thơ trước hết phải là phương tiện đắc lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho những nhiệm vụ chính trị được hình thành trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Với ông, thơ chính trị đã trở thành thơ trữ tình sâu sắc.
Tố Hữu ít nói đến đời tư, đời thường. Những vấn đề đời sống được nhà thơ đề cập đến chủ yếu trên phương diện chính trị. Ông ca ngợi lý tưởng, ca ngợi những con người mang lý tưởng cộng sản, biểu dương những tình cảm cách mạng, ca ngợi nhân dân ca ngợi đất nước. Những vấn đề chính trị ấy trở thành nguồn cảm hứng, nguồn cảm xúc chân thật, sâu xa và thành lẽ sống, niềm tin… Bởi vậy, với Tố Hữu chính trị trở thành cái riêng tư và được nhà thơ diễn đạt bằng ngôn ngữ tâm tình, ngôn ngữ của tình yêu, tình mẹ con, tình bạn bè một cách tự nhiên không gượng ép.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà thơ khẳng định lẽ sống của con người là con đường cách mạng. Đó là con đường duy nhất có thể giải thoát cho mọi số phận cá nhân, khỏi cảnh áp bức, đọa đầy đau khổ Như những con tàu, Những người không chết, Trăng trối, Con cả chột mia, Từ ấy.
Từ Việt Bắc trở đi, Tố Hữu thường chủ yếu đặt vấn đề lẽ sống của dân tộc, và tiếp đó là mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại.
Đi liền với lẽ sống lớn là những tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng: Niềm say mê lý tưởng, tình đồng chí, lòng yêu mến nhân dân, đất nước, ân nghĩa của cách mạng, của Đảng lãnh tụ, tình cảm quốc tế Ta, Việt Bắc, 30 năm, Mẹ Tơm, Nước Non… Sáng tháng Năm, Bác ơi, Miền Nam… Một nhành xuân… Bí… thơ. Thơ Tố Hữu ở những bài hay nhất thường là có sự kết hợp cả ba chủ đề lẽ sống lớn, niềm vui lớn và ân tình cách mạng Ta, Việt Bắc, Mẹ Tơm, Bác ơi, 30 năm…
Thơ Tố Hữu ở giai đoạn sau cách mạng mang khuynh hướng sử thi. Chủ yếu đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Cái "Tôi" trữ tình trong thơ Tố Hữu từ buổi đầu là cái "tôi" chiến sỹ, rồi đến cái "tôi" công dân, về sau là cái "tôi" nhân dân, dân tộc, cách mạng Ta đi tới, Việt Bắc, Nhiều bài thơ Xuân trong gió lộng và các bài thơ khác trong Ra trận… Nhận vật trữ tình của Tố Hữu là những con người đại diện cho những phẩm chất dân tộc, thậm chí mang tầm vóc lịch sử, thời đại: Hình tượng anh giải phóng quân Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý, Mẹ Suốt…
Cảm hứng của Tố Hữu là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự, đời tư. Nổi bật lên trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh dân tộc, cộng đồng chứ không phải vấn đề số phận cá nhân. Nói đúng hơn số phận cá nhân hòa vào số phận dân tộc, cộng đồng.
Về mặt nghệ thuật, thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn hướng về lý tưởng cộng sản và tương lai xã hội chủ nghĩa. Thể hiện cuộc sông bằng cảm quan ấy, thế giới hình tượng trong thơ Tố Hữu là thế giới của cái cao cả, cái lý tưởng, của ánh sáng, gió lộng, niềm tin.
Thơ Tố Hữu còn có giọng điệu rất dễ nhận ra đó là giọng điệu tâm tình, là tiếng nói của tình thương mến. Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu… Nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh” (Chế Lan Viên). Điều này dược thể hiện rõ nhất qua cách xưng hô, trò chuyện, tâm sự với đối tượng “anh em ơi” ,“ban đời ơi”, "đồng bào ơi", "anh vệ quốc quân ơi"… "anh chị em ơi”, "em ơi … cho đến cả thiên nhiên đất nước "Xuân ơi xuân", "Hương giang ơi!"… Giọng tâm tình, tiếng nói yêu thương này có liên quan đến chất Huế của hồn thơ Tố Hữu, nhưng chủ yếu là do quan hệ giữa nhà thơ và bạn đọc, do quan niệm của Tố Hữu về thơ "Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí".
Nghệ thuật thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc. Tính dân tộc thể hiện ở thế giới bình tượng, phong cảnh quê hương, đất nước thân thuộc, ở hình ảnh con người rất đỗi Việt Nam Tính dân tộc còn thể hiện ở việc Tố Hữu thể hiện, sử dụng các thể thơ mang đậm tính chất “truyền thống dân tộc như Lục bát (các bài thơ Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Nước non ngàn dặm… Kết hợp cả giọng thơ cổ điển và dân gian thể hiện những nội dung tình cảm cách
mạng mà có gốc rễ truyền thống, tinh thần dân tộc, làm phong phú cho thể thơ lục bát: Thơ 7 chữ của Tố Hữu Quê mẹ, Mẹ Tơm, Theo chân Bác, trang trọng, có màu sắc cổ điển nhưng vẫn biến hóa linh hoạt, diễn tả được nhiều trạng thái cảm xúc.
Về ngôn ngữ, Tố Hữu không mạnh ở sáng tạo từ mà thường sử dụng từ ngữ, lối nói quen thuộc với dân tộc, thậm chí cả những ước lệ, những so sánh ví von truyền thống, nhưng lại biểu hiện được nội dung mới của thời đại.
Về nhạc điệu, thơ Tô Hữu rất giàu nhạc điệu, một biểu hiện tính dân tộc của nghệ thuật ở bề sâu. Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng các từ láy, dùng các vần và phối hợp các thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ, tạo thành nhạc điệu, phong phú cho các câu thơ, diễn tả được cái nhạc điệu bên trong của tâm hồn, một nhạc điệu tâm tình mà bề sâu của nó là điệu cảm xúc của dân tộc, tâm hồn dân tộc Em ơi Ba Lan, Mẹ Tơm, Xuân 1961, Quê Mẹ, Nước non ngàn dặm…
Với những nét phong cách vừa phong phú vừa đa dạng, vừa sâu sắc, hấp dẫn nói trên, Tố Hữu rất xứng đáng là "Lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam".
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù Lai, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Truyền thống văn hóa, văn chương của quê hương và gia đình là những nhân tố quan trọng trong sự hình thành hồn thơ Tố Hữu.
Tố Hữu giác ngộ cách mạng từ khi còn là một thanh niên học sinh. Bắt gặp lý tưởng Đảng, nhà thơ đã hăng say hoạt động cách mạng với tất cả những tin tưởng say mê đến bồng bột.
Năm 1938 Tố Hữu được kết nạp Đảng.
1939 Tố Hữu bị thực dân bắt giam và giả qua nhiều nhà lao ở miền Trung và Tây Nguyên. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhà thơ .Tố Hữu hiểu được rằng dân thân vô là phải chịu tù đày, là thân sống chỉ coi còn một nửa, là súng kẻ tai gươm kề cổ.
Tháng 3 /1942 Tố Hữu vượt ngục thành Đắc Lây tìm ra Thanh Hóa bắt liên lạc với cách mạng trong thời gian này đã được mẹ Tơm nuôi giấu.
Tháng 8/1945 Tố Hữu đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền ngay trên thành phố quê hương.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc Tố Hữu đã liên tục giữ những nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
Năm 1996 ông được nhận giải thưởng Hồ chí mình về văn hóa nghệ thuật
Năm 2002 Tố Hữu qua đời ở tuổi 82
Hơn nửa thế kỷ làm thơ, Tố Hưu để lại nhiều tập thơ. Mỗi tập thơ đánh dấu một chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong thế kỷ 20.
Tố Hữu làm thơ chủ yếu để phục vụ chính trị, cách mạng và kháng chiến. Phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu có thể khái quát trong 4 điểm sau đây:
1: Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị
Cảm hứng chủ đạo trong thơ ông là những lời tâm huyết say mệ về một lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của đất nước và dân tộc trong kháng chiến
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”
2: Thơ Tố Hữu có khuynh hướng sử thi
Có thể nói đó là những bài chiến ca đấu, những khúc ca chiến trận vang đội âm hưởng anh hùng ca:
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
3: Giọng điệu tâm tình dịu ngọt là nét đặc sắc đậm đà trong thơ Tố Hữu
Tình quê hương, tình non nước, tình yêu Đảng, yêu Bác, tình mẹ con, tình đồng chí, đồng bào…là dư vị thiết tha, nồng ấm dào dạt trong thơ ông.
“Hương giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
4: Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc
Tố Hữu sử dụng nhiều thể thơ nhưng đặc sắc nhất, thành công nhất chính là thể thơ lục bát. Ngôn ngữ thơ thanh thoát, giàu vần điệu, nhạc điệu như cao dao, dân ca, như Truyện Kiều nên rất dễ ngâm, dễ thuộc.
“ Mình về mình có nhớ ta.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Nếu thơ ca là một dòng sông thì thơ Tố Hữu là một dòng sông xanh mà ta thương mến. Dòng sông ấy đang hợp lưu trong lòng ta.
TỪ KHÓA TÌM KIẾM
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Tố Hữu
Nêu hiểu biết của em cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Tố Hữu
Cuoc doi va su nghiep cua nha tho To Huu
Cuộc đời và sự nghiệp văn học nghệ thuật của Tố Hữu
Tóm tắt lý lịch Đoàn Giỏi
Nhà văn Đoàn Giỏi sinh ngày 17-5-1925 tại Tỉnh Tiền Giang, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, nước Việt Nam.
Tiểu sử Nhà văn Đoàn Giỏi
Đoàn Giỏi là một nhà văn Việt Nam, ông có một số bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư. Từ năm 1957, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong văn của Đoàn Giỏi người ta thấy thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện từ thực tế đến huyền bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ..
Tác phẩm "Đất rừng phương Nam" là một tác phẩm xuất sắc của ông, đây là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi.Cuốn sách xoay quanh cuộc đời của cậu bé An bị lưu lạc trong chiến tranh, được người dân cưu mang, trưởng thành ở vùng sông nước Nam Bộ. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba..
Nhạc sĩ Đoàn Giỏi qua đời ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ ngày 7 tháng 4 năm 2000, tên ông dược đặt cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
Tác phẩm truyện:
Ký:
Truyện ký:
Tác phẩm thơ ca:
Đoàn Giỏi thời trẻ
Đoàn Giỏi học trung học tại Trường trung học Mỹ Tho, sau đó theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá. Ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miên Nam từ năm (1949-1954).
=> LÀ MỘT NGƯỜI THÀNH CÔNG TRONG LĨNH VỰC VĂN CHƯƠNG & MỸ THUẬT
Tóm tắt lý lịch Đoàn Giỏi
Nhà văn Đoàn Giỏi sinh ngày 17-5-1925 tại Tỉnh Tiền Giang, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, nước Việt Nam.
Tiểu sử Nhà văn Đoàn Giỏi
Đoàn Giỏi là một nhà văn Việt Nam, ông có một số bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư. Từ năm 1957, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong văn của Đoàn Giỏi người ta thấy thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện từ thực tế đến huyền bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ..
Tác phẩm "Đất rừng phương Nam" là một tác phẩm xuất sắc của ông, đây là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi.Cuốn sách xoay quanh cuộc đời của cậu bé An bị lưu lạc trong chiến tranh, được người dân cưu mang, trưởng thành ở vùng sông nước Nam Bộ. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba..
Nhạc sĩ Đoàn Giỏi qua đời ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ ngày 7 tháng 4 năm 2000, tên ông dược đặt cho một phố thuộc Quận Tân Phú.